---------- Forwarded message ---------
From: Tri Nguyen <
Date: Thu, Apr 30, 2020 at 6:21 PM
Subject: Về Công hàm Phạm Văn Đồng: Này, ông tướng Tuấn
To:
From: Tri Nguyen <
Date: Thu, Apr 30, 2020 at 6:21 PM
Subject: Về Công hàm Phạm Văn Đồng: Này, ông tướng Tuấn
To:
Về Công hàm Phạm Văn
Đồng: Này, ông tướng
Tuấn
Posted on 30/04/2020 by Boxit VN
Phạm Đình Trọng
MỘT
Tháng Chín, năm 1958 Tàu cộng giăng ra cái bẫy khi
phát đi Tuyên bố ngày 4.9.1958 của người đứng đầu Chính phủ Tàu cộng
Chu Ân Lai về chủ quyền lãnh thổ của Tàu cộng ở Biển Đông:
“1. Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc là 12
hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc,
bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Taiwan
(tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận,
quần đảo Penghu, quần đảo Dongsha, quần đảo Sisha, quần đảo Zhongsha, quần đảo
Nansha, và các đảo khác thuộc Trung Quốc…”
Quần đảo Sisha chính là quần đảo Trường Sa và quần đảo
Nansha chính là quần đảo Hoàng Sa. Hai quần đảo đã được các triều
đại nhà nước Việt Nam quản lí, khai thác và có trong hệ thống hành
chính, có trong bản đồ Việt Nam, có trong lịch sử Việt Nam từ thời
nhà Lê thế kỉ 15. Điều này một học sinh trung học ở Đất Mũi, Cà Mau
hay ở Đồng Đăng, Lạng Sơn không đến nỗi dốt lịch sử cũng biết.
Cái bẫy ở chỗ tuyên bố của Chu tưởng như chỉ xác định
bề rộng lãnh hải Tàu cộng 12 hải lí. Chỉ đòi hỏi lãnh hải 12 hải
lí thì quá khiêm nhường, bình thường, lương thiện, có gì mà không
tán thành. Nhưng không. Sau đó tuyên bố mới liệt kê một loạt lãnh thổ
để Tàu cộng xác định lãnh hải, trong đó có Trường Sa; và Hoàng Sa
của Việt Nam. Tuyên bố không ghi tên các quần đảo theo phiên âm quốc tế
thông thường, quen thuộc mà ghi theo âm Tàu lạ hoắc, lại liệt kê tới
tấp một loat tên na ná nhau. Quần đảo Trường Sa không ghi Spratly Islands
mà ghi Sisha. Quần đảo Hoàng Sa không ghi Paracel Islands mà ghi Nansha,
giữa những Dongsha, Zhongsha rối mù.
Ông Chủ tịch nhà nước cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh,
ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng và cả Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt
Nam, trong đó có ông Ba Duẩn được tuyện truyền cộng sản tâng bốc là
có trí tuệ sáng láng như ngọn đèn hai trăm nến nhưng đều mụ mẫm,
chỉ biết có giai cấp, chỉ biết thứ giáo điều sai trái và lừa dối
“bốn phương vô sản đều là anh em”, không biết đến Tổ quốc, không biết
đến cương vực lãnh thổ cha ông để lại, không biết đến lịch sử nước
nhà. Trong cái mụ mị giai cấp, các ông đã để cho ông Thủ tướng Phạm
Văn Đồng ngây thơ, mau mắn chui vào cái bẫy của Tàu cộng khi ngày
14.9.1958 ông Thủ tướng Đồng sốt sắng kí công hàm giấy trắng, mực
đen, con dấu đỏ phúc đáp “ghi nhận”, “tán thành” và “tôn trọng” Tuyên
bố chủ quyền của Tàu cộng với quần đảo Trường Sa và quần đảo
Hoàng Sa của tổ tiên các ông.
Với ý
đồ giăng bẫy, chắc chắn Bắc Kinh không chỉ đăng Tuyên bố trên Nhân dân Nhật báo, không
chỉ đọc trên đài Phát thanh Bắc Kinh mà Tuyên bố lãnh thổ Trung cộng
4.9.1958 còn được Bắc Kinh gửi cho Hà Nội cùng những lời đề nghị êm
tai, mùi mẫn. Dù vậy, nếu là những người lãnh đạo nhà nước đủ
tầm, xứng đáng đại diện cho trí tuệ và khí phách Việt Nam, các ông
phải tỉnh táo thấy rằng không có thông lệ, phép tắc quốc tế nào
bắt phải phúc đáp một tuyên bố như vậy của Tàu cộng. Muốn tỏ lòng
trân trọng nước lớn đàn anh đã hào phóng chi viện súng đạn giúp các
ông giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Pháp vừa qua, các
ông chỉ cần cảm ơn quí quốc, cảm ơn quí đồng chí đã thông báo cho
biết, là đủ.
Nhưng các ông đã yêu nước đàn anh Tàu cộng vượt chỉ tiêu
của Tàu cộng. Các ông đã dâng lãnh thổ thiêng liêng của tổ tiên các
ông để lại vượt mong đợi của Tàu cộng. Không những “tán thành”, “tôn
trọng” Tuyên bố của Tàu cộng vơ cả Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam
vào lãnh thổ Tàu cộng, các ông còn nhiệt thành, triệt để dâng
Trường Sa, Hoàng Sa cho Tàu cộng đến mức hứa hẹn với Tàu cộng rẳng
sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước Việt Nam có trách nhiệm triệt để tôn trọng
lãnh hải 12 hải lí của Tàu cộng và quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa
cũng trở thành lãnh thổ của Tàu cộng để vạch lãnh hải!
Ông Thủ
tướng Phạm Văn Đồng vô tích sự đã chết từ lâu nhưng chữ kí Phạm Văn
Đồng trong công hàm gửi người đứng đầu Chính phủ Tàu cộng ngày
14.9.1958 đã để lại cho đất nước, cho người dân Việt Nam một đại họa
lâu dài. Từ ngàn đời nay người dân Việt Nam vẫn thong dong đánh cá
trên biển vàng, biển bạc Hoàng Sa, Trường Sa của tổ tiên người Việt.
Nay Tàu cộng nghiễm nhiên coi biển giàu Hoàng Sa, Trường Sa là biển
của chúng.
Chúng đưa hạm đội vào biển Trường Sa, Hoàng Sa diễn
tập, bắn đạn thật. Chúng đưa tàu khảo sát vào biển Trường Sa, Hoàng
Sa thăm dò dầu khí. Chúng chia lô biển Trường Sa, Hoàng Sa mời gọi
quốc tế vào khai thác dầu khí và cùng ăn chia với chúng. Chúng xua
đuổi các công ty khai thác dầu khí của Mỹ, của Tây Ban Nha phải hủy
bỏ hợp đồng khai thác dầu khi với Việt Nam, rút khỏi vùng biển
Trường Sa, Hoàng Sa. Hàng ngày, hàng ngàn tàu đánh cá từ Nam Hải,
từ Phúc Kiến, từ lãnh thổ Tàu cộng tràn xuống làm chủ biển Trường
Sa, Hoàng Sa của Việt Nam.
Từ hàng chục năm nay người dân Việt Nam đánh cá trên
biển Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam bị tàu chiến của Tàu cộng
giết hại, thuyền bị đâm chìm diễn ra hàng ngày. Thuyền may mắn không
bị đâm chìm, người không bị giết hại thì bị bọn Tàu cộng cướp hết
tài sản, máy móc trên thuyền trị giá hàng tỉ đồng, thuyền bị bắt
giữ, chủ tàu phải nộp tiền phạt vài trăm triệu đồng mới được trả
thuyền. Dân Việt Nam đánh cá trên biển Việt Nam mà bị phạt như đánh
cá trộm trên biển Tàu cộng.
Việt Nam gửi Công hàm lên Liên Hiệp Quốc khẳng định chủ
quyền Việt Nam với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, lập tức Tàu
công có Công hàm phản bác. Lí lẽ phản bác của Tàu cộng chủ yếu
dẫn chứng Công hàm 14.9.1958 của ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng “tán
thành”, “tôn trọng” Trường Sa, Hoàng Sa là lãnh thổ Tàu cộng.
HAI
Để vô hiệu Công hàm Phạm Văn Đồng dâng hai quần đảo
Trường Sa, Hoàng Sa cho Tàu cộng, để hóa giải đại họa Phạm Văn Đồng
để lại, chỉ có cách nhìn nhận trong luật pháp, trong hiệp định kí
kết quốc tế, trong thực tế cuộc sống, trong đời sống chính trị thế
giới và trong lịch sử Việt Nam từ năm 1955 trên lãnh thổ Việt Nam,
trong một đất nước, một quốc gia cùng tồn tại hai bộ máy quản trị
nhà nước, quản lí hai phần lãnh thổ Việt Nam, cùng chính danh và có
tư cách pháp lí như nhau được xác định bởi Hiệp định quốc tế Genève
năm 1954:
Nhà nước Việt Nam Cộng hòa quản lí lãnh thổ Việt Nam
từ Nam vĩ tuyến 17 và nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lí
lãnh thổ Việt Nam từ Bắc vĩ tuyến 17. Hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa ở Nam vĩ tuyến 17 thuộc lãnh thổ nhà nước Việt Nam Cộng
hòa. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thể có quyền định
đoạt và không thể có trách nhiệm pháp lí với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
Công hàm 257-HC ngày 25.8. 2016 của nhà nước cộng sản
Việt Nam đệ trình Tổng Thư kí Liên Hiệp Quốc đã long trọng khẳng
định vai trò pháp lí của nhà nước Việt Nam Cộng hòa với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
“Giữa những năm 1954 và 1975, Việt Nam tạm thời bị chia đôi. Vì
vị trí địa lý, vào thời gian đó, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ
quyền của Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt Nam). Do đó, sự kiện Việt Nam Cộng hòa thực
thi trách nhiệm chủ quyền đối với hai quần đảo này trong thời kỳ đó là hoàn
toàn hợp lý và hợp pháp… Năm 1975, sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm quần đảo
Hoàng Sa (tháng giêng 1974), Chính phủ quốc gia Việt Nam Cộng hòa đã ra văn thư
liệt kê các bằng chứng lịch sử trích từ thư tịch quốc gia chứng minh rõ ràng và
thuyết phục chủ quyền truyền đời của Việt Nam trên quần đảo này”.
Năm 2018, một lần nữa nhà nước cộng sản Việt Nam lại
có công hàm A/72/692 khẳng định với Liên Hiệp Quốc và thế
giới: Chính thể Việt Nam Cộng hòa là một chính thể độc lập, có đủ mọi quyền
pháp lý quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa không có quyền tài phán với hai quần đảo vào thời điểm đó.
BA
Cuộc đấu tranh pháp lí với tên cướp tham lam, nham hiểm
và hung dữ Tàu cộng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của lịch
sử Việt Nam, bảo vệ nguyên vẹn tài sản cha ông người Việt để lại ở
Biển Đông còn đang tiếp diễn cam go, đầy trắc trở. Từ cuộc đấu tranh
pháp lí với Tàu cộng bảo vệ chủ quyền Việt Nam với hai quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa, nhà nước cộng sản Việt Nam đã chính thức và
trịnh trọng khẳng định Chính thể Việt Nam Cộng hòa là một chính thể độc lập,
có đủ mọi quyền pháp lý, tức là có chính danh, có vai trò lịch sử.
Tiếng nói chính thức của nhà nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khẳng định nhà nước Việt Nam Cộng hòa có mặt
trong lịch sử, trong luật pháp quốc tế từ 1955 là nhà nước độc lập,
chính danh không phải chỉ là tiếng nói với Liên Hiệp Quốc, với thế
giới mà còn là tiếng nói nghiêm khắc và khẩn thiết với mọi người
dân Việt Nam, tiếng nói về hòa giải, hòa hợp dân tộc.
Công nhận nhà nước Việt Nam Cộng hòa tồn tại hợp pháp,
độc lập và chính danh cũng là thừa nhận cuộc chiến tranh 15 năm đẫm
máu 1960-1975 tiêu diệt, xóa sổ nhà nước hợp pháp, chính danh Việt
Nam Cộng hòa là cuộc chiến tranh bất chính, là một tội ác với
giống nòi Việt Nam. Cuộc chiến tranh cho tham vọng quyền lực của Đảng
Cộng sản, loại bỏ nhà nước chính danh, hợp pháp Việt Nam Cộng hòa
để Đảng Cộng sản thống trị cả nước Việt Nam đã nhấn chìm cả giống
nòi Việt Nam vào cuộc nội chiến nồi da xáo thịt, người Việt giết
người Việt được núp bóng, được ngụy trang dưới cái tên mĩ miều, lừa
dối là “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”.
Cuộc nội chiến người Việt giết người Việt được khởi
nguồn từ một nghị quyết lớn của Đảng Cộng sản. Nghị quyết 15 ra
đời tháng Giêng, năm 1959 ghi rõ: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng
Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân… lấy sức mạnh
của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp
với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng
lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.
Cuộc nội chiến người Việt giết người Việt do Đảng Cộng
sản phát động nổ tiếng súng đầu tiên ở Trà Bồng, Quảng Ngãi tháng
Mười Hai, 1959. Cuộc nội chiến thực sự bùng nổ và nhanh chóng lan
rộng ra cả miền Nam Việt Nam từ tiếng súng đồng khởi ở Mỏ Cày, Bến
Tre ngày 17.1.1960 do Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Nguyễn Thị Định phát
lệnh và chỉ huy. Tiếng súng của lực lượng cộng sản bắn vào nhà
nước Việt Nam Cộng hòa ở đơn vị hành chính Mỏ Cày, Bến Tre chính
là tiếng súng mở dầu cuộc nội chiến Nam Bắc Việt Nam.
Năm năm sau tiếng súng nội chiến nổ ra ở Bến Tre, Mỹ
mới đổ quân vào Nam Việt Nam chỉ để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của
chính quyền chính danh, hợp pháp Việt Nam Cộng hòa và ngăn chặn làn
sóng cộng sản lan rộng ra Đông Nam Á. Sau khi quân Mỹ rút hết khỏi Nam
Việt Nam năm 1973, sức mạnh quân sự miền Bắc tấn công chính quyền hợp
pháp, chính danh Việt Nam Cộng hòa càng bão táp, dữ dội dẫn đến sự
sụp đổ hoàn toàn nhà nước chính danh, hợp pháp Việt Nam Cộng hòa
và sự toàn thắng của sức mạnh quân sự Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ngày 30.4.1975.
Lược đôi dòng cuộc chiến tranh 1960-1975 ở Nam Việt để
thấy rõ rằng đó là cuộc nội chiến Nam Bắc tương tàn, hoàn toàn
không phải là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước như Đảng Cộng sản
tuyên truyền để thu gom lòng yêu nước của người dân ở cả hai miền Nam
Bắc Việt Nam. Lừa dối người dân, Đảng Cộng sản có sức mạnh chính
trị. Nhận súng đạn của khối cộng sản, nhiều nhất là súng đạn của
Tàu cộng, Đảng Cộng sản có sức mạnh bạo lực. Với sức mạnh đó,
Đảng Cộng sản đã chiến thắng nhưng cả dân tộc Việt Nam đã thua đau
đớn, thua thê thảm, thua tủi nhục.
Dù Đảng Cộng sản ngạo nghễ chiến thắng trong cuộc nội
chiến Nam Bắc nhưng chiến thắng của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là
danh nghĩa, không phải thực chất. Kẻ thực sự chiến thắng và thu
chiến lợi phẩm lớn từ khi cuộc nội chiến Nam Bắc chưa diễn ra là
Tàu cộng. Từ Đại hội hai, 1951, tư tưởng Mao Trạch Đông đã trở thành
tư tưởng chủ đạo trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng Mao là lấy
giai cấp thống trị dân tộc. Lấy ý thức giai cấp thay thế ý thức dân
tộc.
Không còn mảy may ý thức dân tộc, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã kí hiệp định Genève 1954 cắt đôi đất nước, chia đôi dân tộc
Việt Nam. Không còn mảy may ý thức dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã biến đất nước Việt Nam thành tiền đồn của khối cộng sản, lấy
máu người dân Việt Nam bảo vệ bình yên, ổn định và phát triển cho
đất nước Tàu cộng. Không còn mảy may ý thức dân tộc, ông Phạm Văn
Đồng đã kí công hàm 14.9.1958 tán thành và tôn trọng hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Tàu cộng. Không còn mảy may ý
thức dân tộc, ông Lê Duẩn, ông Nguyễn Chí Thanh đã sôi sục phát động
cuộc nội chiến Nam Bắc đẫm máu, lùa cả giống nòi Việt Nam vào lò
lửa nội chiến mê mải chém giết nhau, chia rẽ, li tán triệt để dân
tộc Việt Nam, làm dân tộc Việt Nam suy yếu và lệ thuộc thảm hai vào
nước ngoài và lệ thuộc đau đớn nhất, nguy khốn nhất là lệ thuộc
vào Tàu cộng.
Đúng lúc cuộc nội chiến được đẩy lên cao nhất, đúng
lúc cả hai miền Nam Bắc tham chiến thương tích nặng nề nhất, kiệt
quệ nhất và phải dồn sức cùng lực kiệt vào keo quyết định cuối
cùng một mất một còn với nhau thì Tàu cộng thừa cơ xuất quân đánh
chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Giặc Tàu cộng đã cướp được
những núm cát san hô vùi xương cốt và mang hồn thiêng của cha ông
người Việt ở Hoàng Sa sau khi người lính cuối cùng quân đội Việt Nam
Cộng hòa giữ Hoàng Sa ngã xuống. Từ đây lịch sử Việt Nam có thêm
một ngày giỗ trận, ngày Hoàng Sa đau thương. 19.1.1974.
BỐN
Cuộc nội chiến Nam Bắc núi xương sông máu chia rẽ, li
tán dân tộc kết thúc đã 45 năm. Độ lùi gần nửa thế kỉ đủ cho nhiều
người có được sự tĩnh tâm nhận ra thực chất cuộc nội chiến Nam Bắc
1960-1975.
Dù thời nào và ở đâu tiếng nói bao dung, công bằng và
đúng đắn nhất cũng là tiếng nói người dân. Trong những lễ kỉ niệm
hàng năm ngày Hoàng Sa đau thương, tấm băng rôn ghi tên 75 người con yêu
của Mẹ Việt Nam hi sinh mạng sống trong cuộc chiến chống Tàu cộng xâm
lược ở Hoàng Sa được người dân Hà Nội giương cao bên thành Tượng đài
Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh trước sân đền Bà Kiệu bên Hồ Gươm
lịch sử.
Dù là đảng viên cộng sản nhưng thực sự là nhà sử học
chân chính thì phải nhìn nhận sự thật lịch sử. Trong bộ Lịch sử
Việt Nam 15 tập vừa được xuất bản ở Hà Nội những nhà viết sử
chính thống của cung đình cộng sản viết về giai đoạn lịch sử
1954-1975 đã đến gần được với sự thật lịch sử khi gọi tên thực thể
chính trị quản lí nửa phía Nam lãnh thổ Việt Nam suốt một phần năm
thế kỉ qua là Chính quyền Sài Gòn và Quân đội Sài Gòn thay cho cách
gọi ngụy quyền, ngụy quân đầy áp đặt chính trị và ngột ngạt hận
thù đấu tranh giai cấp.
Nhưng ngọn lửa nội chiến hận thù giai cấp, lấy giai cấp
thống trị dân tộc, lấy bạo lực chuyên chính vô sản hủy diệt dân tộc
đã đốt cạn kiệt tình cảm dân tộc, ý thức dân tộc trong mạch máu,
trong trái tim nhiều người Việt Nam. Cuộc nội chiến tương tàn đã chôn
vùi hàng chục triệu mạng sống người Việt cũng đã đưa nhiều người
Việt từ đám đông vô danh trở thành người có tên tuổi, có vị trí cao
trong xã hội. Có vị trí cao trong Đảng, trong chính quyền của Đảng
nhờ hận thù đấu tranh giai cấp, nhờ chuyên chính vô sản nên họ chỉ
biết có giai cấp, chỉ biết có chuyên chính, không biết đến khái niệm
dân tộc, không biết đến khái niệm Tổ quốc đúng nghĩa. Với họ, Tổ
quốc là Đảng Cộng sản của họ. Những người Việt Nam không cộng sản
đều là thế lực thù địch, đều là ngụy.
Một người có tên Nguyễn Kim Khanh viết trên trang FB có
nick Thời báo Công lý và Sự thật.vn
“Không thể vinh danh Tử sỹ VNCH chết ở Hoàng Sa… vinh danh Tử sỹ VNCH là người
yêu nước, để biến họ thành các anh hùng liệt sỹ của dân tộc VN là không thể,
không bao giờ và không thể chấp nhân được. Bởi, chính họ không bao giờ là những
người yêu nước đúng nghĩa vì chúng đại diện cho một chính thể tay sai cho quân
xâm lược trong suốt chiều dài 20 năm mà, xa hơn là 30 năm cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ”.
Còn ông Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn trước 1975 là quân
biệt động mang những khối thuốc nổ có sức hủy diệt lớn gài vào
dòng chảy cuồn cuộn sức sống của thành phố đông đúc Đà Nẵng, ông
tướng mang cái chết đến tận giường ngủ, mang cái chết vào bữa ăn
người dân Đà Nẵng còn đáng thất vọng hơn về tầm nhìn hẹp hòi và
cạn kiệt tình cảm dân tộc: “VNCH đã được đồng bào VN yêu nước trong suốt
21 năm đều gọi là chế độ tay sai, bán nước gọi tắt là lũ ngụy quân, ngụy quyền.
Để phản biệt rõ ở Việt Nam chỉ có một chính quyền của dân, do dân và vì dân đó
là chính quyền VNDCCH do Chủ tịch HCM lãnh đạo, còn các chính quyền khác đều là
ngụy quyền”.
Này, ông tướng Tuấn. Ông có đọc lịch sử do chính những
nhà sử học cộng sản thú nhận rằng Cách mạng tháng Tám 1945 là
cuộc cách mạng cướp chính quyền của Chính phủ chính danh, hợp pháp
Trần Trọng Kim không? Chính quyền có được nhờ dùng bạo lực của đám
đông cướp được có phải là chính quyền hợp pháp không? Cướp được
chính quyền rồi Đảng Cộng sản chia ghế, chia quyền cho những người
vai vế trong Đảng. Người dân không được tự do ứng cử, bầu cử mà chỉ
là những rô bốt cầm phiếu đi bầu theo lập trình “Đảng cử dân bầu”,
người dân bị cướp quyền công dân, quyền làm chủ đất nước. Chính
quyền không do lá phiếu người dân bầu lên có chính danh không? Chính
quyền cướp tài sản của dân bằng cải tạo tư sản, bằng luật “đất đai
là sở hữu toàn dân”. Chính quyền tàn bạo giết dân bằng cải cách ruộng
đất, bỏ tù dân mút mùa không án trong những vụ Nhân Văn Giai Phẩm,
xét lại chống Đảng, tập trung cải tạo. Chính quyền cướp bóc dân,
tắm máu dân như vậy sao có thể gọi là của dân, do dân, vì dân được?
Này, ông tướng Tuấn. Ông có biết rằng khi ông Phạm Văn
Đồng đại diện Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt bút kí hiệp
định Genève chia đôi đất nước Việt Nam thì Bộ trưởng bộ Ngoại giao
Trần Văn Đỗ, đại diện Quốc gia Việt Nam không kí hiệp định để phản
đối việc chia cắt đất nước. Ngày 20.7.1954 ông Phạm Văn Đồng vâng lệnh
Chu Ân Lai kí Hiệp định Geneve chia cắt đất nước thì ngày 21.7.1954
Thủ tướng Ngô Đình Diệm lệnh cho những vùng lãnh thổ thuộc Quốc gia
Việt Nam treo cờ rủ để tang đất nước chia cắt. Sự việc đó cho thấy
ai thực sự yêu nước, ai chỉ là tay sai, chư hầu của ngoại bang.
Này, ông tướng Tuấn. Ông có biết vì Việt Nam có chia
cắt Nam Bắc mới có Công hàm 14.9.1958 Phạm Văn Đồng “tán thành”, “tôn
trọng” Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ Tàu cộng. Mới có cuộc nội
chiến Nam Bắc xương người Việt chất thành núi, máu người Việt chảy
thành sông. Mới có nỗi đau ngày 19.1.1974 Tàu cộng đánh cướp toàn bộ
quần đảo Hoàng Sa của lịch sử Việt Nam. Những sự kiện đó đã chứng
minh nhà nước nào thực sự yêu nước, thực sự vì dân vì nước.
Này, ông tướng Tuấn. Ông có biết đến năm 1975, ba mươi năm
tồn tại, 1945-1975, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ có 50
nước trên thế giới công nhận. Trong khi nhà nước Việt Nam Cộng hòa
mới tồn tại hai mươi năm, 1955-1975, đã có 91 nước trên thế giới công
nhận. Những con số đó chính là chỉ số chính danh của một nhà nước
đó.
Này, ông tướng Tuấn. Ông có biết ngày 30.4.1975 những
binh đoàn người Việt lăm lăm súng AK tràn vào Sài Gòn thì cũng có
hàng chục, hàng trăm người Việt cầm AR15 tự sát trong gia đình, tự
sát trong doanh trại, tự sát ngay trên đường phố Sài Gòn. Những người
sống vì lí tưởng tốt đẹp của nhà nước chính danh, hợp pháp Việt
Nam Cộng hòa và họ đã chết cùng nhà nước chính danh, hợp pháp Việt
Nam Cộng hòa. Đội quân tay sai, bán nước thì không thể có lí tưởng
cao cả, không thể chết lẫm liệt như vậy.
Trước những họng súng xâm lăng của Tàu cộng áp sát biên
giới phía Bắc, trùng trùng bủa vây ở Biển Đông, hơn lúc nào hết,
người Việt phải hóa giải hận thù do những người cộng sản chia cắt
đất nước gây ra, xóa bỏ khác biệt tư tưởng, vượt qua ngăn cách chính
kiến chính trị, tìm đến mẫu số chung là Tổ quốc Việt Nam, cùng
chung ý chí chống Tàu cộng xâm lược, giữ gìn toàn vẹn gia tài giang
sơn gấm vóc của lịch sử, của ông bà để lại. Trước thách thức của
Tàu cộng xâm lược, trước đòi hỏi khẩn thiết của lịch sử phải đoàn
kết dân tộc giữ nước mà vẫn có kẻ hằn học hận thù, chia rẽ, li
tán làm suy yếu dân tộc, những kẻ đó nếu nhận thức không nhỏ nhen,
trí tuệ không tăm tối thì đích thị là bè lũ đã bán rẻ linh hồn cho
Tàu cộng rồi.
P.Đ.T.
Tác giả gửi BVN
This entry was posted in Biển Đông, Công hàm Phạm Văn Đồng, Thể chế. Bookmark the permalink.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment