Cái chết của những hiệp sĩ này là sự mất mát không thể bù đắp cho
thân nhân, và kèm theo đó là nỗi thất vọng về một nền pháp trị còn quá lỏng lẻo
mang tính tùy tiện. Sau thảm kịch đau lòng nói trên, không ít người dân đã công
khai chất vấn, lên án lực lượng công an về năng lực và trách nhiệm, bởi họ chính
là người được trả lương bằng tiền mồ hôi, nước mắt của người dân thông qua thuế
phí, và các khoản đóng góp, nhưng lại không bảo vệ an ninh và trật tự xã hội.
Theo thống kê không chính thức, nhà cầm quyền CSVN đang phải nuôi khoảng 5,5 triệu công an, chiếm
12% ngân sách nhà nước, tương đương với non 7 tỷ Mỹ Kim. Thế nhưng lực lượng công an này đa số dùng cho
nhu cầu đàn áp dân để bảo vệ quyền lực độc tôn của
đảng hơn là dùng cho nhu cầu
bảo vệ an ninh và trật tự xã hội cho người dân.
Chính vì thế, các đội “hiệp sĩ đường phố” xuất hiện tự phát trong
bối cảnh an ninh ở Việt Nam nhiều nơi không được đảm bảo. Nạn cướp giật ở Thành
Hồ xảy ra trong nhiều năm và là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với người dân thành
phố này. Năm 2016 có đến 888 vụ cướp giật trong Thành Phố và tình hình chưa bao
giờ được cải thiện, không một ai có thể yên tâm đeo túi xách, đồ trang sức hay
cầm điện thoại trên đường phố. Năm ngoái, tạp chí The Economist đã xếp Thành Hồ
đứng thứ 6 trong danh sách 10 thành phố nguy hiểm nhất thế giới.
Qua cái chết của những hiệp sĩ thể hiện hai thất bại lớn của nhà
nước.
Thất bại đầu tiên là nhà nước đã không đảm bảo được an toàn cho
công dân của mình, khiến những hiệp sĩ tay không tất sắt phải lao ra đường hành
động giống như thời hồng hoang của xã hội phong kiến. Trong một xã hội pháp quyền,
không có vai trò nào dành cho các hiệp sĩ. Bảo vệ đất nước đã có quân đội; bảo
vệ an ninh xã hội đã có cảnh sát; bảo vệ lẽ phải đã có tòa án. Đó là những cơ
cấu được tổ chức và vận hành có tính chuyên nghiệp cao, được huấn luyện và
trang bị chu đáo để làm nhiệm vụ. Nhưng một xã hội mà người dân buộc phải tự
bảo vệ mình trước cái xấu là một xã hội thất bại về mặt luật pháp.
Thất bại thứ hai là khi các hiệp sĩ ra đường, nhà nước đã không có
chính sách nào để bảo vệ họ. Bộ máy công an kêu gọi người dân hợp tác trong vai
trò hiệp sĩ trên đường phố, nhưng lại không đưa ra được một quy định pháp luật
nào để bảo vệ. Như vậy, có thể thấy bộ máy công an cảnh sát lơ là nhiệm vụ bảo
vệ, đẩy trách nhiệm này sang cho người dân, xúi người dân đi làm một việc mà
pháp luật không thừa nhận và nguy hiểm cho chính tính mạng của họ.
Nhiều người đặt câu hỏi, vì sao đến nông nỗi người dân phải tự bảo
vệ mình? Vai trò của lực lượng công an đang ở đâu khi nạn trộm cướp diễn ra hết
sức trắng trợn ở mọi nơi, mọi lúc như chỗ không người trước sự bất lực của nhà nước?
Nguyên do phải chăng là lực lượng công an cảnh sát Việt Nam, thay
vì bảo vệ trị an, đang tập trung sử dụng vào việc trấn áp người dân khiếu kiện,
cướp đất, đàn áp biểu tình, canh giữ người đấu tranh cho dân chủ, tự do… thậm
chí công an đứng đầy đường bắt hàng rong, dẹp vỉa hè và lo trấn lột, ăn mãi lộ?
Tội phạm hình sự là những kẻ liều lĩnh luôn manh động và thường có
hung khí. Vì thế, để đấu tranh với chúng là công việc rất nguy hiểm, đòi hỏi cả
trí tuệ, kỹ năng nghiệp vụ lẫn trang thiết bị phòng vệ. Trong khi những người
là hiệp sĩ không được đào tạo nghiệp vụ. Công việc đầy nguy hiểm đó nếu được
thực hiện bởi những con người nghiệp dư là sự đánh đu với tính mạng của chính
họ. Đấu tranh chống tội phạm chỉ bằng nghĩa khí và lòng nhiệt tình, thì rõ ràng
không cân sức.
Có thể thấy, mô hình hiệp sỹ đường phố là mô hình khó có cơ sở
pháp luật để tồn tại. Không ai phủ nhận rằng mỗi người đều phải có trách nhiệm
để cuộc sống quanh mình tốt đẹp hơn. Nhưng điều rõ ràng là một xã hội pháp
quyền phải cai trị bằng pháp luật, không phải bằng nghĩa khí. Bởi nghĩa khí của
những con người có nhận thức khác nhau sẽ có quan niệm khác nhau về lẽ phải.
Không loại trừ họ nhận thức sai về lẽ phải, cũng như nhận định sai về tình
huống dẫn đến hành động sai.
Trong bất cứ sự phân định quyền lực nào cũng có giới hạn nhất định
cho nên mới có khái niệm quyền hạn đi theo quyền lực. Khi một nhóm hiệp sĩ tổ
chức theo dõi, bắt giữ, áp tải và can thiệp vào một vụ tranh chấp dân sự của
hai công dân, thì đó là họ đã đi quá giới hạn. Bởi, tức thời chúng ta tước bỏ
tự do, hoặc hạn chế tự do của một ai đó như còng, trói, điều đó phải được thực
hiện bởi quyền lực nhà nước chứ không phải quyền lực của một tổ chức không được
luật pháp thừa nhận.
Nhà cầm quyền CSVN thường lập lờ nước đôi ngợi khen, ủng hộ và tôn
vinh hiệp sĩ khi họ có thành tích trấn áp tội phạm, và im lặng khi họ bị chỉ trích.
Tuy nhiên, điều này đang tạo ra những tiền lệ nguy hiểm. Bởi hiệp sĩ chỉ cần
trong thời loạn, khi hiệu lực cai trị của nhà nước suy yếu, hoặc khi lợi ích
của nhà nước không đồng nhất lợi ích của xã hội. Khi xã hội cần đến các hiệp
sĩ, nghĩa là có một khoảng trống quyền lực cần được phủ lấp.
Thật nguy hiểm nếu các hiệp sĩ trở thành một phần của thể chế, hay
sự trợ giúp cho thể chế. Bởi một xã hội mà nhiều bên khác nhau được quyền cổ
xuý sử dụng bạo lực, là một xã hội dung dưỡng luật rừng, và chứa đựng mầm mống của
sự hỗn loạn.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment