Đại hội XII
Đảng Cộng sản Việt Nam đối diện với Năm Chữ Chính
Nguyễn
Khắc Mai
Năm chữ Chính đó là:
Một: Chính Danh.
Hai: Chính Thống.
Ba: Chính Nghĩa.
Bốn: Chính Học.
Năm: Chính Mi.
Tôi tin rằng đa số các đại biểu được cử đi dự Đại hội này phải
quan tâm tới năm chữ Chính có tầm quan trọng này. Năm chữ Chính này, dẫu họ
không nghĩ tới, nó vẫn luôn tồn tại, thường xuyên có mặt, chi phối mọi hành vi
của Đảng, của từng đảng viên trong chức phận, trong hành xử… của họ.
Chữ Chính Thứ Nhất: Chính Danh
Nguyễn Công Trứ từng có câu nổi tiếng: “Đã mang tiếng ở trong trời
đất / Phải có danh gì với núi sông”. Câu hỏi này không chỉ cho một cá thể Người,
mà nó chung cho cả những cộng đồng Người. Đảng cũng thế, luôn luôn phải đối
diện với câu hỏi này và tùy từng thời phải có câu trả lời cho đúng, nghĩa là
trả lời cho “thuận thiên thời, thuận địa lợi, thuận nhân hòa”. Và đây là chữ
Chính đầu tiên mà Đại hội XII đối diện. Họp Đại hội XII để làm gì, nếu không
phải là để trả lời cho đúng những cái “danh” mà Đảng đã và đang đánh mất. Không
trả lời rõ vấn đề này, những nội dung của Báo cáo chính trị sẽ không có linh
hồn.
Vậy, xin nói về thế nào là chính danh. Trong học thuyết của nho
gia có mấy quan niệm chính danh rất hay. Một là của Khổng tử và hai là của Lã
thị Xuân Thu. Ba là của Lưu Dực.
Trong sách Luận ngữ, thiên Tử Lộ có câu nói nổi tiếng của Khổng
tử. ”Danh không chính thì lời
nói [tư tưởng, chính sách…] không thuận. Lời không thuận thì công việc không
thành. Việc không thành ắt lễ nhạc [trật tự, kỷ cương…] không chấn hưng được.
Lễ nhạc không hưng thì hình phạt [luật lệ] không trúng. Hình phạt không trúng,
thì dân chúng không biết đặt tay chân vào đâu [không biết làm gì cho phải, làm gì
là trái]. Cho nên người quân tử [kẻ lãnh đạo] phải nói cho rõ cái danh, đã nói
thì làm cho được. Kẻ quân tử không được nói tùy tiện.”
Sách Lã thị Xuân Thu, thiên Chính Danh có câu: “Danh chính thì trị, danh mất thì loạn. Kẻ làm cho
mất danh, là kẻ nói, chủ trương quá mức. Nói, chủ trương quá mức độ tức là biến
cái có thể thành cái không có thể, cái không cho phép. Nên cái phải biến thành
cái không phải; biến cái đúng thành cái không đúng; nên cái sai thành cai không
sai… Phàm mọi sự loạn, là do chính danh không đúng vậy!”. Lưu Dực (thời Hán-Ngụy) cũng viết “Phàm danh không ngay thẳng, chính đáng thì mọi
việc sẽ sai lầm… Cho nên bậc vương giả phải chính danh để giám sát cái thực của
nó”. Có thể nói đây là trí
khôn Trung Hoa, nhưng cả mấy ngàn năm qua ít ai hiểu và làm đúng, ngày nay cả
những người cộng sản Trung hoa cũng như Việt đều đang đối diện với vấn đề
“Chính Danh”.
I. -Có rất nhiều sự rối loạn về chính danh của Đảng Cộng sản. Thứ
nhất là danh xưng “Cộng sản” không phản ảnh đúng cái tên Communisme. Thuật ngữ
này trong tiếng Đức, Anh, Pháp, Nga… đều được hiểu là chủ nghĩa cộng đồng. Chữ
cộng sản, nhiều người cho là người Nhật dịch đầu tiên rồi truyền sang Tàu, vào
Việt Nam khoảng đầu thế kỷ 20. Tôi đồ rằng cái tâm thức nông dân phong kiến với
quan niệm “thiên hạ vi công” và “ở đời muôn sự của chung”, tâm lý chung chạ đã
khiến những người dịch ban đầu chỉ tìm tới cái ước muốn “cộng sản” mà đã bỏ qua
cái ý thức về “một cộng đồng kiểu mới” của K. Marx.
Thứ hai là cái gọi là chủ nghĩa xã hội và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đây là những tư duy đại lộn xộn. Lớp đảng viên đầu tiên hiểu và nói chủ nghĩa
cộng sản là “tam vô nhị các”. Tam vô là vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo.
Nhị các là các tận sở năng, các tận sở nhu, nghĩa là mọi người làm hết năng lực
của mình và hưởng hết nhu cầu của minh (sướng quá, ai mà không thích!). Hiểu
tôn giáo đến mức cực đoan như Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh từng nói với trí thức
các trường Đại học ở Hà Nội tại hội trường C2 Đại học Bách khoa, rằng “tôn giáo
là thuốc độc của nhân dân”. Chú ý thuốc độc, chứ không phải thuốc phiện như Marx
quan niệm.
Còn xóa bỏ xã hội cũ thì “Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận
rễ”. Sau này thấy ấu trĩ quá nên không tuyên truyền nữa. Sau năm 1950 khi khai
thông biên giới với Trung Quốc, đảng đổi tên là đảng Lao động lấy tư tưởng Mao
Trạch Đông đưa vào điều lệ làm kim chỉ nam cho hành động.
Tư tưởng gian khổ ba
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội hình thành với những khẩu hiệu được coi là “tổng
lộ tuyến” sau mới đổi thành “đường lối chung”: bỏ qua giai đoạn tư bản chủ
nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội,
với những chủ trương cải cách ruộng đất, cải tạo công thương, công tư hợp
doanh…, tiến hành cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng văn hóa tư tưởng, coi cách
mạng khoa học kỹ thuật là then chốt…
Nhưng như người xưa nhận xét, do không
chính danh nên nói và làm lộn xộn “biến cái có thể thành cái không có thể, cái
phải biến thành cái không phải, cái sai thành cái không sai…”. Hậu quả là ngày
nay, Đảng không còn là tiên phong cách mạng, cũng không còn người đại diện cho
lợi ích của Dân tộc. Chính quyền không còn là của Dân, do Dân, vì Dân mà đã có
những hành động phản bội lại lợi ích của Dân, của Nước, đã biến thành những
nhóm lợi ích tham nhũng, mua quan bán tước, lệ thuộc Trung Quốc.
Ngay như Điều 4 trong Hiến Pháp cũng hiểu, nói và làm lộn xộn,
không rành mạch rõ ràng. Những câu chữ trong Điều 4 không có một văn bản có
tính luật nào giải thích cho rõ ràng, chính xác. Thế nào là vai trò nhà nước của
Đảng? Thế nào là Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội? Đưa vào Hiến pháp một nội
dung không có một điều luật nào đi kèm để hiểu đúng làm đúng, tính chính danh
của Đảng bị vi phạm một cách tùy tiện. Nói như người xưa đó chính là đầu mối
của mọi sự suy đồi, rối loạn. Một Nhà nước “loạn” thì không tham nhũng, suy
đồi, trì trệ, lạc hậu và tụt hậu ngày một xa mới là lạ.
Đại hội XII phải phân tich mổ xẻ, cân lại cho ngay ngắn chữ Chính
đầu tiên là “Chính danh”. Nếu thật sự có trách nhiệm các đại biểu của Đại hội
phải đưa vấn đề này vào nội dung của Đại hội.
2-Có ba điều có thể làm nên tính chính danh cho đảng hôm nay:
Một là là phải từ bỏ cái gọi
là chủ nghĩa Marx – Lênin. Vì sao vậy? Vì học thuyết này cung cấp một lối tư duy giáo điều, đầy mâu
thuẫn, làm rối loạn chuẩn mực. Phàm
con người mà tư duy rối loạn chuẩn mực thì như người xưa nói sẵn sàng biến cái
sai thành đúng, cái không có thể thành có thể. Sự rối loạn tư duy trên tổng thể
của xã hội ta đã nhìn thấy rõ. Cứ nhìn vào thực trạng xã hội chúng ta hôm nay,
những người trung thực không khỏi không đau lòng. Lẽ nào các đại biểu Đại hội
nỡ nhắm mắt làm ngơ?!
Hai là, từ bỏ mô hình chủ nghĩa
xã hội kiểu xô viết đã phá sản trên thực tế, đã gây nên thảm họa, khiến cả châu
Âu bất bình lên án là chế độ này đã gây nên những tội ác chống nhân loại ở ngay
những quốc gia do những đảng cộng sản cầm quyền. Ở Việt Nam chúng ta, không thể
chứng minh được về lý thuyết cũng như thực tiễn là chủ nghĩa xã hội thực sự có
chân thiện mỹ, trái lại nó đã gây ra vô vàn đau thương cho con người và xã hội.
Có thể nói tất cả nhũng cải cách xã hội theo đường lối tiến lên chủ nghĩa xã
hội của Đảng Cộng sản đều thất bại thảm hại, từ cải cách ruộng đất đến hợp tác
hóa nông nghiệp, cải tạo công thương… Cho đến khi cùng đường thì phải “đổi
mới”, thực chất là thực hiện dè dặt nhũng hình thức và phương thức của chủ
nghĩa tư bản. Tuy nhiên do thực hiện những hình thức tư bản chủ nghĩa mà vẫn
duy trì Marx – Lenin nên về cơ bản không thể thực hiện phương thức tư bản chủ nghĩa
hiện đại, thành ra đã sản sinh một thứ chủ nghĩa tư bản vừa hoang dã vừa quái
dị với những quan hệ xã hội rất phong kiến.
Điều ấy khiến đất nước tiêu hao
nhiều nguồn lực của dân tộc, bóc lột tận cùng tài nguyên thiên nhiên cũng như
lao động, chấp nhận công nghệ lạc hậu, phương thức gia công lệ thuộc, lạc hậu
và trì trệ, tham nhũng triền miên, bị các nước trong khu vực bỏ xa mà với thể
chế và những thiết chế xã hội, chính trị như hiện nay không thể nào rút ngắn
khoảng cách được. Kinh tế thị trường có đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa đã tỏ
ra vô vọng và vô nghĩa.
Như thế Đảng chỉ còn một lựa chọn tối ưu là đi theo đường lối xã
hội – dân chủ, chấp nhận đa nguyên, hợp tác với tất cả mọi lực lượng dân tộc,
dân chủ của đất nước, tôn trọng xã hội dân sự. Bài học của các đảng xã hội dân
chủ rất sáng giá, nếu đảng học theo có thể lột xác biến mình thành một thực thể
khác, văn minh, tiến bộ, vẫn theo đuổi những tư tưởng xã hội chủ nghĩa (xin lưu
ý tư tưởng xã hội chủ nghĩa khác xa với cái gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa mà
Đảng đang áp đặt tại Việt Nam), lại phù hợp với tiến trình lịch sử đương đại,
làm nên tính chính danh đích thực cho đảng. Nếu để chậm trễ có khả năng Đảng bị
Dân tộc cho vào cái spam lịch sử. (Nhân đây tôi cũng xin thưa, theo chỗ tôi
biết, nhiều cán bộ cao cấp khi còn học ở Liên Xô và Đông Âu đã từng phê phán
đường lối Stalinnien và Maoist của Đảng và từng công khai bày tỏ sự ủng hộ
đường lối xã hội dân chủ. Nhưng khi về nước, họ lại tỏ ra cơ hội tả khuynh để
leo được vào Trung ương!).
Thứ ba, không thể chính danh,
nếu vẫn đi theo đường lối sai lầm trở thành chư hầu lệ thuộc chính sách bá
quyền đại Hán của Trung Quốc. Xoay trục về Dân tộc, từ bỏ đường lối đối nội,
đối ngoại lệ thuộc Trung Quốc, bắt chước Myanmar, vì lợi ích dân tộc, sẵn sàng
“thoát Trung”, sẵn sàng hòa hợp, hợp tác với nhũng lực lượng dân tộc, dân chủ
của Đất Nước.
Làm được ba điều ấy, bỏ Marx – Lenin, đi theo khuynh hướng xã hội
– dân chủ, xoay trục về Dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ lột xác, cải tạo
mình để có Chính Danh.
Vì sao những khẩu hiệu “Xây dựng một nước Việt Nam Hòa bình –
Thống nhất – Độc lập – Dân chủ – Giàu mạnh”, hoặc như “Dân giàu, Nước mạnh, Dân
chủ, Văn minh”, “Nhà nước của Dân do Dân vì Dân”, “Đảng là đạo đức, là văn
minh”… lại khó thực hiện đến vậy?
Vì sao Đất nước ta, xã hội ta lại đang diễn tiến
chính xác như dự báo của K. Marx vậy? Có hai dự báo quan trọng. Một là: “Chính
phủ [ở Việt Nam là Đảng, hệ thống cầm quyền] chỉ nghe thấy tiếng nói của chính
mình, duy trì sự lừa dối, và cũng đòi hỏi dân chúng phải ủng hộ sự lừa dối đó.
Còn dân chúng hoặc sẽ rơi vào tình trạng mê tín chính trị, hoặc hoàn toàn quay lại
với cuộc sống quốc gia biến thành đám người chỉ sống với cuộc đời riêng tư” (Mác – Ăng ghen Toàn tập,
Tập 1, nxb Chính trị Quốc gia, 1995, tr105).
Dự báo thứ hai, “Chính quyền của
giai cấp công nhân sẽ được thúc đẩy bằng một chế độ ủy trị. Người ta sẽ phó
thác cho một nhóm người tự ứng cử để đại diện và cai trị họ. Điều đó khiến họ
lập tức rơi tõm ngay vào mọi sự lừa dối và lệ thuộc. Sau một hồi ngắn ngủi được
tự do và hưng phấn cách mạng làm công dân của một nhà nước kiểu mới, họ sẽ bừng
tỉnh thấy mình là nô lệ, con rối, con mồi của những tham vọng mới” (K. Mác Cuộc đời và tác phẩm.
J.
Eleinstein, nxb Fayard). Với dự báo rất trúng với thực trạng hiện nay, cái
danh xưng “Nhà nước Công Nông đầu tiên ở Châu Á” nó khôi hài biết bao!
Điều gì khiến hiện thực xã hội của Đất nước đã trở nên “loạn”,
đúng sai lẫn lộn, đem cái sai để thi hành, biến cái sai thành tư duy chính
thống, đem cái ảo tưởng, cái không chính xác thành đường lối hành động? Chính vì
Đảng đánh mất “Chính Danh”.
Chữ Chính thứ hai: Chính thống
Tính chính thống của lực lượng cầm quyền của một quốc gia dân tộc
là vô cùng trọng đại và thiêng liêng.
Ngày xưa khi còn trong chế độ bộ tộc, người thủ lĩnh chính thống
là một người già có kinh nghiệm, hiểu biết, có sức mạnh thể chất và trí tuệ để
có thể dẫn dắt bộ tộc đi săn, chiếm giữ địa bàn sinh tụ, chống lại bộ tộc thù
địch, có trí khôn để biết phân xử phải trái, giữ gìn luật tục của bộ tộc…
Thời phong kiến, một gia tộc nào đó tập hợp được lực lượng xã hội
dùng sức mạnh vũ trang cướp được ngôi báu, dùng thuyết thiên mệnh để lên ngôi
lập ra một triều đại. Phần lớn các triều đại phong kiến Trung hoa đều như thế.
Ở Việt Nam có khác. Phần lớn các triều đại đều có võ công oanh liệt chống giặc
phương Bắc nên có ơn ích với Dân Nước mà lên ngôi chính thống, tuy cũng áp dụng
thuyết thiên mệnh.
Đấy là một thời. Nay vào thời đại dân chủ phổ biến toàn cầu,
thuyết thiên mệnh không thể dùng nữa. Một lực lượng chính trị nào muốn ở ngôi
chính thống lãnh đạo quốc gia đều phải hội đủ hai điều kiện cần và đủ: Phải có
công tích ơn ích đối với Dân Nước, đó chỉ là điều kiện cần. Nhưng còn một điều
kiện đủ nữa mới có thể trở thành chính thống. Đó là sự phúc quyết của nhân dân,
theo những thể thức dân chủ.
Thật ra công tích của Đảng Cộng sản, thì như nhận định của học
giả, nhà chính trị Trần Trọng Kim mới đúng. Vào năm 1947 cụ Trần viết thư cho
Hoàng Xuân Hãn đã nói rõ: Việt minh do Đảng Cộng sản lãnh đạo là lực lượng
chính trị to lớn và có tổ chức, họ “Công chi thủ. Tội chi khôi”. Nghĩa là công
ở hàng đầu, mà tội cũng lớn nhất. Đó là nói công tích, vừa công to mà tội cũng
lớn. Điều kiện cần này cũng thật chưa trọn vẹn.
Còn điều kiện đủ là gì? Trong thời đại Dân chủ vấn đề dân có phúc
quyết hay không mới là tối quan trọng và đầy đủ. Về vấn đề này, câu chuyện có ý
nghĩa và thú vị nhất là trường hợp Đảng Tập hợp dân chúng của Pháp do tướng De
Gaulle lãnh đạo. Sau khi cùng quân Đồng minh đánh bại phát xít Đức, họ đã không
như cách Trung Quốc “lập chính quyền trên đầu súng”, mà thông qua bầu cử, Đảng
Tập hợp dân chúng mới được cầm quyền và De Gaulle mới được cử làm Tổng thống
nước Pháp.
Còn ở Việt Nam hiện nay, tuy có bầu cử, nhưng Ủy ban bầu cử do
Đảng chi phối (lãnh đạo), người ứng cử do Đảng chỉ định, kể cả một vài người
gọi là ứng cử tự do cũng đều do Đảng có cho phép hay không.
Trong Hiến pháp dẫu có Điều 4 quy định về sự lãnh đạo của Đảng,
nhưng lại không có một đạo luật nào nói rõ về điều đó. Hiện nay trong xã hội
ta, những thiết chế chính trị đều được điều tiết bằng hiến định và luật định.
Chính phủ và hệ thống chính quyền địa phương đều có hiến định và luật định.
Quốc hội có hiến định và luật định. Hệ thống tư pháp (tòa án) có hiến định và
luật định. Chỉ mỗi mình Đảng là đang hoạt động không có luật định. Vì thế tính
chính thống của Đảng hiện nay là nửa vời. Công cũng chỉ nửa vời mà Luật cũng
chỉ nửa vời.
Thật sự Đảng đang bị thách thức tính chính thống từ cả hai phía
công và luật. Đại hội XII không thể để cho Đảng tiếp tục cầm quyền mà mất đi
tính chính thống toàn vẹn.
Để có tính chính thống hôm nay:
-Đảng phải lập công, từ bỏ đường lối hư hỏng cũ kỹ như đã nói ở
trên, để cùng những lực lượng dân chủ tiến bộ phục hưng dân tộc trong giai đọan
mới.
-Kiên quyết bỏ Điều 4 Hiến pháp, xây dựng một đạo luật văn minh và
dân chủ về Tổ chức và hoạt động của các đảng chính trị Việt Nam.
-Tôn trọng đa nguyên, vì độc nguyên là độc tài hư hỏng cũ kỹ. Tổ
chức bầu cử tự do văn minh, minh bạch. Chỉ trong điều kiện ấy, Đảng Cộng sản
mới được đặt mình trong xã hội, đua tranh để lành mạnh, kiếm tìm nhân cách mới
của Đảng và của từng đảng viên mới mong lấy lại niềm tin, sự tín nhiệm của nhân
dân, mới mong lập được công tích, mới thật thà phục vụ dân nước.
Ngay như việc nhân sự mà Hội nghị Trung ương 13 đang họp bàn cũng
phải lý đến tính chính thống. Ban Chấp hành Trung ương mặc nhiên là ban lãnh
đạo quốc gia. Nhưng ai quy định điều này, không có bất cứ một điều luật nào quy
định cả. Vì không quan tâm đến tính chính thống, nên phương thức và phương pháp
chọn, bầu một Ban Chấp hành Trung ương – ban lãnh đạo quốc gia – cho đến nay
vẫn là tùy tiện, và cách thức rất cổ hủ.
Đúng ra sự lựa chọn nhân sự, đặc biệt là với bốn chức danh “tứ trụ
triều đình”, ít ra là phải diễn ra theo hai quy trình. Một là sự lựa chọn trong
nội bộ của Đảng, và hai là quy trình phúc quyết của quốc dân. Cả hai quy trình
ấy đều phải có tranh cử. Những ứng cử viên phải có nhân thân được tín nhiệm,
phải có ý tưởng và chương trình tranh cử. Cuộc tranh cử để được lựa chọn ấy
phải diễn ra công khai, minh bạch, có sự giám sát của xã hội. Hội nghị Trung
ương 13 cũng đang làm việc theo phương thức của mô hình xô viết đã “hư hỏng cũ
kỹ”! Vì thế, đối với toàn Đảng, cũng như với xã hội, nó có sự bất minh, mờ ám,
nó chỉ là việc làm của một nhóm người, mà tư cách pháp nhân nhà nước không rõ ràng,
cứ đọc những mẩu tin về cuộc họp này đủ thấy rõ.
Với những cách làm đã “cũ kỹ, hư hỏng”, ban lãnh đạo của Đảng, đặc
biệt là Tổng Bí thư đang đặt Đảng trước một thử thách về tính chính thống.
Chữ Chính thứ ba: Chính Nghĩa
Một chính đảng có chính nghĩa phải theo và phục vụ cho chính nghĩa
của dân tộc.
Tính chính nghĩa của dân tộc phải phù hợp với Thiên thời, Địa lợi,
Nhân hòa. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa đương đại đã có những nội hàm mới:
Thiên thời: là
quy luật vận động xã hội trong dòng lịch sử đương đại, nó là tiến trình hình
thành văn minh và văn hiến mới của nhân loại. Nó là tiến trình dân chủ hóa toàn
cầu, là kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, tin học hóa, tri thức hóa và ưu thế
hóa từng dân tộc từng khu vực. Là tiến trình nói như F. Engel là sự hòa giải
của nhân loại với thiên nhiên và với chính mình.
Địa lợi: sự
phát triển độc lập, tự chủ của các quốc gia dân tộc trong những quan hệ địa
chính trị mới văn minh, nhân văn, tiến bộ, hợp tác chống lệ thuộc, phi thực dân
hóa, đế quốc chủ nghĩa bá quyền. Khi nhân loại bước vào văn minh tin học, sự
cải thiện số phận của các quốc gia dân tộc là rất lớn. Ví dụ là các nước nhỏ
Tây Âu sau thế chiến thứ II, những nước NICs ở châu Á và Mỹ La tinh…
Nhân hòa: sự
chăm lo cho con người, phát triển và tôn trọng nhân quyền, dân quyền, hài hòa
lợi ích cá nhân và xã hội, thu hẹp chênh lệch giàu-nghèo. Hưng dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh (phát triển khoa học, giáo dục, tôn trọng và đề cao dân
quyền, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân). Người dân, các
công dân được sống trong môi trường xã hội dân chủ, văn hóa, ba thiết chế xã
hội hài hòa. Một chính quyền dân chủ, trong sạch, trách nhiệm và hiệu quả. Một
nền kinh tế thị trường đúng nghĩa, không bị làm méo mó biến dạng với những định
hướng sai lầm duy ý chí, độc quyền. Một xã hội dân sự văn minh phát triển.
Hiện nay tính chính nghĩa của Đảng đang bị thử thách, vì đường
lối chính trị của Đảng không tương thích với dòng chảy của lịch sử nhân loại
đương đại, khiến cho Dân tộc rơi vào cảnh lệ thuộc về chính trị vào đường lối
bá quyền đại Hán của Trung Quốc, về kinh tế, thì ngày một tụt hậu xa so với
những nước trong khu vực, mà trước đây ta cùng với họ là ngang một trình độ. Vì
đường lối sai lầm, khiến cho phương thức quản lý và công nghệ lạc hậu, đang trở
thành nước gia công lệ thuộc, về xã hội, văn hóa, giáo dục vừa suy đồi vừa yếu
kém, đời sống cùa đa số người dân lương thiện, công nhân, nông dân, người lao
động, công chức thấp, đang là nỗi nhục, nỗi xấu hổ của chế độ!
Đường lối đối nội, đối ngoại sai lầm của ban lãnh đạo Đảng, đang
đặt Dân tộc trước những hiểm họa, chủ quyền biên cương và Biển đảo bị bá quyền
Trung quốc cưỡng chiếm lâu dài, hòa bình và an ninh quốc gia thường trực bị uy
hiếp, công cuộc làm ăn sinh sống của nhân dân trên biển bị khống chế…
Tính chính nghĩa của đảng đang bị thử thách nghiêm trọng trên cả
mấy vấn đề cơ bản:
Một là, có sớm cải cách để Dân chủ hóa, kiên quyết từ bỏ thể chế
và những thiết chế đã hư hỏng cũ kỹ, thực hiện đa nguyên chính trị, hòa giải
dân tộc, nhằm phát triển tối đa, tối ưu nội lực của Dân Nước, đưa Đất Nước sớm
thoát khỏi tình trạng lac hậu, tụt hậu xa, ra khỏi tình trạng suy đồi thoái hóa
đang diễn ra, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của Dân. (Thật kỳ
lạ, nói nhà nước công nông, mà đời sống của công nông hiện tình rất thê thảm,
thua xa các nước trong khu vực!).
Đây là thử thách của mọi lực lượng chính trị của Dân tộc, nó là
hòn đá thử tính chính nghĩa có thật lòng vì Dân vì Nước hay chỉ vì quyền lợi ích
kỷ của nhóm cầm quyền, chỉ nhăm nhăm lợi ích của chủ nghĩa, của phe nhóm. Một
xã hội có dân chủ dân quyền (chứ không phải quan chủ, đảng quyền), một Đất nước
có tự do, hạnh phúc thật sự chứ không chỉ trên câu chữ đầu lưỡi, dân trí được
nâng cao, dân quyền được thực hiện, dân sinh được chăm lo cải thiện, là những
lý do để tồn tại của tất cả mọi đảng phái, mọi lực lượng chính trị của Dân
Nước. Ngót thế kỷ qua với những điều kiện hiện thực như của Việt Nam, những
nước trong khu vực đã làm được, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam đã duy trì quá
nhiều sai lầm khiến cho chính nghĩa ấy đã không thực hiện trọn vẹn, mà Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng lại nói một cách vô trách nhiệm là trăm năm nữa cũng không
chắc có chủ nghĩa xã hội!
Hai là, độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ và biển đảo, an ninh
của quốc gia có được bảo vệ vững chắc và trọn vẹn, hay để bị uy hiếp lâu dài,
bằng những hành động kiên quyết, khôn ngoan, hay cả tư duy chính trị, cả lời
nói, việc làm đều lệ thuộc bá quyền đại Hán. Hành xử của Đảng từ 1958 đến nay đều từng bước lộ rõ sự cam tâm
lệ thuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc, hữu ý hơn là vô tình buộc số phận của Dân
tộc vào sự lệ thuộc Trung Quốc.
Phải “thoát Trung”. Không có nghĩa là cắt đứt mọi quan hệ với
Trung Quốc nhưng phải tự chủ, tự lập, liên kết với bất kỳ ai để gia tăng thế và
lực chống lại dã tâm của Trung Quốc đang hưng phát và đi theo con đường đế quốc
chủ nghĩa theo màu sắc đại Hán, đang tìm mọi cách để ngăn chặn sự phát triển tự
nhiên, lành mạnh, bức ra khỏi mô hình lạc hậu, trì trệ của Việt Nam.
Một chính sách “đối Trung” lành mạnh, hữu hiệu, tự tôn dân tộc, là
thử thách nghiêm trọng tính chính nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân
tộc.
Chữ Chính thứ tư: Chính học
Người đầu tiên sử dụng chữ “chính học” là cụ Ngô Đức Kế, trong
cuộc tranh biện về Truyện Kiều với nhà văn hóa Phạm Quỳnh: “Chính học và Tà
thuyết”. Khái niệm chính học được nêu lên để phân biệt, đối lập với tà thuyết.
Chính học nói giản dị là “học thuyết chân chính”. Vậy có thể lấy
những chuẩn mực nào để khẳng định một học thuyết là chính học? Nếu không thì nó
sẽ là tà thuyết!
Có ba tiêu chí.
Một là tính đúng dắn, chính xác, lô gích nội tại (của học thuyết)
không mâu thuẫn, có thể dùng tư duy khoa học để kiểm chứng. Nó được phản ảnh
đến tối đa “tính chân” của nhận thức luận, vì thế nó có tính khiêm tốn để biết
rằng nó chỉ là một bước tiệm cận đến chân lý. (Nó không huênh hoang một tấc đến
trời như cho mình là chân lý tột cùng, là đỉnh cao muôn trượng, là độc tôn duy
nhất…!).
Tính đúng đắn này không chỉ được kiểm chứng bằng tư duy khoa học,
mà quan trọng là được chứng minh, kiểm định trong thực tế cuộc sống. Ví dụ cái câu của Lenin huênh hoang là dân chủ
xã hội chủ nghĩa cao gấp triệu lần so với dân chủ tư sản. Thực tế của Liên Xô, Trung
Cộng, Việt Cộng… đã bác bỏ cái luận điểm tuyên truyền chính trị lừa đảo đó của
Lenin! Thực tiễn Việt Nam ngót nửa thế kỷ qua hoàn toàn bác bỏ rằng sự lựa chọn
của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản, theo chủ nghĩa xã hội là đúng đắn duy nhất.
Hai là, tính thiện, nó góp phần làm cho cuộc đời, cho con người,
cho xã hội, cho dân tộc thật sự có tiến hóa, phát triển, không tạo ra áp bức xã
hội. Nó thật sự là nhân văn, nhân ái, nhân đạo. Không tạo ra thế tranh đoạt, ăn
cướp khiến đẩy xã hội vào suy đồi, tha hóa. Nó giúp con người phát triển “tận
kỳ tính” (tính người phát triển đến độ cao), giúp xã hội đạt tới hài hòa, văn
hóa, giúp dân tộc thăng hoa phát triển, giúp nhân loại đạt tới minh triết.
Ba là, nó mở ra nguồn mỹ cảm để cho con người, xã hội, quê hương
và cả nhân loại đẹp đẽ lên, trong sạch lên, nhân từ, hòa ái, bao dung. Nó sẽ là
nét nhạc như Nguyễn Trãi từng mơ ước: “Sinh đời thái bình ai cũng được ở yên,
gặp thuở thánh minh ai cũng được thỏa sống”, và “làm sao cho trong thôn cùng
xóm vắng không còn lời hờn giận, oán sầu”.
Nhân loại cho đó là ba chuẩn mực: Chân-Thiện-Mỹ của cuộc đời.
Cái mà đảng tôn xưng là học thuyết, chủ nghĩa Marx – Lenin đã vi
phạm cả ba chuẩn mực kể trên. Chủ nghĩa Marx – Lenin thật sự đã thất bại, phá
sản. Đảng buộc phải chấp nhận hình thức tư bản chủ nghĩa và mô hình toàn trị do
Đảng Cộng sản độc tài lãnh đạo, tức là một thể chế chính trị siêu phong kiến!
Sự tụt hậu toàn diện của đất nước, chính trị lệ thuộc, kinh tế lạc
hậu, văn hóa suy đồi, giáo dục khủng hoảng, nhân cách thoái hóa… đang chứng
minh sự tà vạy của học thuyết Marx – Lenin và con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Đảng phải đi tìm cái Chính học đích thực làm tư duy chiến lược,
làm triết lý hành động, đổi mới toàn diện và triệt để đường lối, về phương thức
hành xử sao cho văn minh, đạo đức, cho thật dân chủ, cả về nhân thân tức là
nhân cách mới của đảng viên, của cán bộ . Hãy vứt bỏ tà thuyết Marx – Lenin,
kiếm tìm những giá trị minh triết của dân tộc và nhân loại cùng kiến thức mới
của thế giới, làm cho tư duy và đường lối thật sự là chính học. K. Marx từng
nói:”Bản chất con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội”. Nhân cách của cán bộ, đảng viên thường đều
đang hình thành và thể hiện ra trong những mối quan hệ xã hôi mang màu sắc
phong kiến lạc hậu, tham lam, ăn trên ngồi trốc, nói như nhà Phật là
tham-sân-si, diễn tả như Lenin là vừa tham, vừa cậy quyền vừa dốt. Không có chính học không thể chuyển hóa nhân
cách thành văn minh dân chủ được.
Để khẳng định được tính chính học trong tư duy chính trị, trong
đường lối, trong phương thức hành xử, Đảng phải kiếm tìm tính chân – thiện – mỹ
trong học thuyết của mình. Phải từ bỏ tà thuyết Marx – Lenin, từ bỏ thể chế xã
hội chủ nghĩa, từ bỏ nhũng đánh tráo khái niệm đang như là phương thức hành xử
chính thống. Phải khẳng định được chính học may ra mới biển đổi được nhân cách,
thành con người vừa văn minh, đạo đức, dân chủ. Thế mà vì không có chính học,
nên đảng đã duy trì cơ bản là những quan hệ xã hội suy đồi, lạc hậu, vừa siêu
phong kiến, vừa tư bản hoang dã, vừa xã thôn cát cứ lạc hậu. Làm sao mà có nhân
thân mới văn minh, đạo đức của Đảng cho được.
Đi tìm chính học là một nhiệm vụ hàng đầu của Đại hội XII này!
Chữ Chính thứ năm: Chính Mi
“Chính mi” là chữ nói lái của dân Quỳnh Lưu, dân xứ Nghệ hài hước
để khẳng định rằng Chính Mi là Chí Minh.
Vấn đề Chính mi có hai nội dung. Một là vấn đề nhân thân Hồ Chí
Minh. Và hai là nhân cách của cán bộ đảng viên, có “chính mi” hay không. Tức là
có thật là cách mạng, có thật là văn minh, dân chủ hay vẫn chỉ là quan chủ
phong kiến, có thật là sạch sẽ, lành mạnh hay chỉ là phường giá áo túi cơm, có
thật là công bộc, người phục vụ chung hay là nhóm ăn trên ngồi trốc, v.v. Cả
hai vấn đề này đều có tầm quan trọng của sự mất còn của Đảng và còn liên quan
cả đến vận mệnh đất nước!
Về vấn đề thứ nhất, Hồ Chí Minh là ai? Từ nhỏ sau khởi nghĩa Tháng
Tám, tôi đã nghe câu hỏi cụ Hồ là ai, có phải là Nguyễn Ái Quốc hay không. Có
lẽ vì thế mà Chủ tịch Hồ chí Minh phải tự mình viết ra cuốn Cuộc đời hoạt động của Hồ
Chủ tịch, cuốn này có một dị bản in bằng tiếng hoa xuất bản ở Hồng Công.
Trong cả hai cuốn, cụ Hồ gián tiếp nhận mình là Nguyễn Ái Quốc.
Dăm năm trở lại đây, trong xã hội lại râm ran dư luận về một cuốn
sách nhan đề Hồ Chí Minh
sinh bình khảo (khảo cứu cuộc đời của Hồ Chí Minh) của tác giả Hồ Tuấn
Hùng, xưng là cháu nội của nhân vật trong sách. Sách cố chứng minh rằng sau khi
Nguyễn Ái Quốc vì bệnh lao mà mất ở Trung Hoa vào 1932, thì Quốc tế cộng sản đã
đem Hồ Tập Chương huấn luyện để đóng thế Nguyễn Ái Quốc. Hồ Tập Chương là người
dân tộc Hẹ, sinh ở Đài Loan, vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, cán bộ của Quốc tế
cộng sản, đã cùng với Nguyễn Ái Quốc tham dự cuộc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam ở sân banh Hương Cảng.
Về Nguyễn Ái Quốc đã chết năm 1932, thì chính Hà Huy Tập một Tổng
Bí thư của Đảng đã khẳng định trong một tài liệu hiện đang là tư liệu chính
thức của Đảng, được lưu trữ tại Cục Lưu trữ của Trung ương. Không thấy ai
nghiên cứu, khẳng định đúng sai của vấn đề này. Nếu tư liệu này của Hà Huy Tập
là chính xác, thì nhân thân của Hồ chí Minh có vấn đề.
Còn Hồ Chí Minh trong một bài báo nhan đề Đảng ta, đăng ở trang
547, tập 5, Hồ Chí Minh
Toàn tập có câu: “Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại Tàu, cùng
với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng.
Trong 7, 8 đại biểu ngoài, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi…”.
Như thế là “Bác Hồ” đã thừa nhận Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là
hai người.
Chi tiết này rõ ràng là chứng minh cho lập luận của Hồ Tuấn Hùng
khi khẳng định rằng Hồ Tập Chương chính là nhân vật Hồ Chí Minh của Việt Nam.
Điều lạ lùng là trong giới nghiên cứu ở Viện Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành của
Đảng cũng không thấy lên tiếng phản bác đúng sai.
Còn một tư liệu nữa cần nghiên cứu. Đó là nhân vật Hồ Quang, thiếu
tá Bát lộ quân, nghe nói dã từng trong một đại đội với Diệp Kiếm Anh. Nghe nói
nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã cho ấn hành cuốn sách về nhân vật Hồ Quang
và được coi là Hồ Chí Minh. Tôi chưa được tiếp cận tài liệu, nên chỉ giới thiệu
để nghiên cứu.
Như vậy nghi án Hồ Chí Minh là ai, thật sự là có cơ sở.
Vấn đề này trở thành nghiêm trọng, vì không nghiên cứu và tiến
hành những khảo sát một cách khoa học để bác bó những luận cứ kể trên, vô hình
trung là đã mặc nhiên thừa nhận Hồ Chí Minh là người ngoại quốc (Trung Hoa).
Nếu không khẳng định rõ Hồ Chí Minh là ai, có thật “chính mi” là
người Quỳnh Lưu hay Nam Đàn Nghệ An, hay lại là một người Tàu thì chúng ta đang
đứng trước một vấn đề pháp lý nghiêm trọng. Vì luật pháp không cho phép một người
nước ngoài không tuyên bố chuyển quốc tich Việt Nam lại được là Chủ tịch nhà
nước hay Chính phủ!
Vì tính nghiêm trọng của vấn đề mà Đại hội XII phải quyết định
thành lập một tiểu ban độc lập nghiên cứu nghi án này.
Vấn đề này đúng là liên quan đế tính chính danh, chính thống của
Đảng và nhà nước hiện nay.
Thứ hai là vấn đề “chính mi” của nhân cách của đảng viên và cán
bộ, của đảng, cố nhiên là với cả bộ máy nhà nước (đa số công chức cán bộ nhà
nước cả quân đội, công an là đảng viên).
Chúng ta hãy đặt một câu hỏi: Cớ sao đội ngũ cán bộ, công chức… đã
trở nên ngày một suy thoái trầm trọng, đến nỗi như vô phương cứu chữa? Tham
nhũng tràn lan, hoạt động kém hữu hiệu kéo dài.
Phải giải quyết vấn đề “chính mi”. “Chính mi” có là người đàng
hoàng, tử tế văn minh, tiến bộ hay là phường giá áo túi cơm, khi có chức vụ thì
lập tức ăn trên ngồi trốc, khi có quyền lực thì lập tức trở thành “vua chúa”,
thành lãnh chúa phong kiến mà không thể nào ngăn chặn được.
Đây là vấn đề lớn, rõ là một thách đố của chế độ. Nếu không xây
dựng được những quan hệ xã hội văn minh, lành mạnh, tiến bộ, nhân văn, cứ càng
vận động thi đua, phong trào gia đình, phường xã văn hóa mới, càng hình thức
chủ nghĩa… sẽ chỉ là may tấm áo đẹp để che ung nhọt trong cơ thể mà thôi.
Kết luận ngắn gọn: Đại hội XII không nghiên cứu những vấn đề then
chốt, cốt lõi của năm chữ chính, sẽ lặp lại con đường cũ, sẽ lại một chu kỳ
lịch sử tắc tị và trì trệ nối tiếp. /.
N. K. M.
TB. Tôi gởi những suy tư từ một thái độ trách nhiệm của một người
có ít nhiều trải nghiệm tới toàn thể các vị đại biểu của Đại hội XII. Mong được
lắng nghe và phản tỉnh.
Tác giả gửi BVN.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment