29/10/2016
Hạ Đình Nguyên
Thật thú vị, khi tự hỏi: “Ông Trọng thuộc loại người nào?”.
Trong khi làm vườn, quét sân, đốt lá, hay nhổ cỏ tôi luôn tự hỏi
mình, tôi có thiên kiến, định kiến, thành kiến gì với Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng chăng, mà cứ nghe ông phát biểu, là tôi bị cảm lạnh hoặc mất ngủ! Mất ngủ
mỗi lần nghe ông nói, từ khi ông lên làm Tổng Bí thư cho đến nay. Rồi cố quên
ông đi, nhưng mới đây nữa, với Hội nghị Trung ương lần 4 vừa kết thúc, lại phải
nhìn ông và nghe ông đọc diễn văn, dù có người bảo, nghe làm gì cho mệt!
Vốn là công dân bình thường, rất xa Hà Nội, không quen biết hay
quan hệ hay… tư thù cá nhân gì với ông, vậy mà cứ khó chịu. Lại tự hỏi, vì sao
ông ấy có thể trở thành Tổng Bí thư của một Đảng có chiều dài lịch sử như thế?
Do đâu ông lại được tái nhiệm lần thứ hai? Và vì sao mấy trăm người ở Ban Chấp
hành Trung ương lại nhất tề bầu ông? Tôi nghĩ đây là thắc mắc và cũng là nỗi ray
rứt của nhiều người, chứ không riêng ai. Có lẽ lời giải đáp mù mờ nhất, mà cũng
khả dĩ ổn nhất, ấy là do vận nước đã đến hồi… phải như thế! Có thể ông là nút
thắt cuối cùng của một tiến trình suy sụp “đúng quy trình”?
Sự lên ngôi của ông là kết quả của tiến trình đi
xuống tiệm tiến 20 năm, và đến ông, liệu là sự kết thúc một thời đại mà ông gọi
là “rực rỡ nhất
lịch sử”?
Và thật là thú vị, khi đọc tựa đề bài viết của tác giả Thuận An
cách đây không lâu: “Ông Nguyễn Phú Trọng
là loại người nào?“. Đây là một câu hỏi cần thiết, và nó có chút tương
ứng cái tính tò mò có sẵn trong tôi về con người nổi tiếng và đặc biệt ấy. Tìm
hiểu về ông cũng là điều lý thú, về tính đặc trưng hiếm có ở cá nhân ông, lại
bởi ông không phải là người dân đơn thuần, mà là người ở vị trí cầm vận mệnh của
đất nước này, theo nguyên tắc ông là người của công chúng.
Ngoài cái lý lịch mặt trắng thư sinh(1)
từ nhỏ đến lớn ông bám vào con chữ mà nổi lên thành một lãnh tụ số một của Đảng
Cộng sản Việt Nam, hẳn ông phải là người thế nào chứ!
Ông ấy nổi tiếng về những câu/ý mà ông phát biểu. Nhiều lắm, và rất điển hình.
Nhưng chỉ xin dẫn vài điều có thể là đặc trưng về tính cách của ông đang còn
gây ấn tượng đậm đà trong dư luận.
Đặc điểm 1: Lập trường cách mạng
kiên định với tầm thế giới.
Sau khi đắc cử chức Tổng Bí thư lần I với lời hứa là sẽ “đột phá”
cái gì đó rất lằng nhằng, ông xuất ngoại sang Cuba với bài diễn văn làm chấn
động trong chính trường thế giới, đến độ bà Tổng thống Brasil, với vai chủ nhà
đứng ra mời khách, đã vùng vằng bực dọc, hủy bỏ chuyến đón tiếp ông mà không
xin lỗi tiếng nào. Đoàn đại biểu do ông dẫn đầu phải quay về sớm, chuyên viên
trong đoàn phải bở hơi tai đăng ký xin lại lịch trình bay phức tạp qua gần 20
nước. Bài diễn văn độc đáo đã bộc lộ ý chí mãnh liệt của ông: Muốn tái dựng phong
trào Cách mạng xã hội chủ nghĩa, ít nhất là ở quy mô các nước đang phát triển,
mà Việt Nam đang là tấm gương chiếu sáng (đọc lại bài diễn văn ấy là thấy
ngay).
Trong khi Liên Xô sụp đổ, Trung Quốc rời bỏ chủ nghĩa xã hội để trở
thành chủ nghĩa bá quyền mèo trắng mèo đen, ông nuôi tham
vọng đưa Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của ông, sớm trở thành ngọn cờ đầu của phe
xã hội chủ nghĩa. Bà Tổng thống Brasil quá mừng rằng đã (suýt) được tiếp xúc
với một linh hồn từ thế kỷ 19 mới hồi sinh. Sự kiện này tuy đã
thành một sự cố
gây dư luận ồn ào trong nước và ngoài nước, nhưng nó biểu trưng tính cách mạng kiên định
nơi ông, như ông đã thấm nhuần trong sách giáo khoa của trường Đảng. Dân gian
thường nói: kẻ điếc thì “dũng cảm”, vì không nghe được tiếng súng. Ông đã kiên
trì đề cao và nâng niu, trang trí lại cái chủ nghĩa mà nhân loại đã sợ chết
khiếp gần thế kỷ nay!
Đặc điểm 2: Biểu trưng người miền
Bắc và có lý luận.
Ở tầm nội trị, để chuẩn bị cho sự thành công Đại hội 12 của mình,
ông khoanh vùng về việc bầu cử: “Tổng Bí thư phải là
người miền Bắc, phải là người có lý luận”. Và câu nói cũng nổi tiếng: dân chủ đến thế là
cùng, vì mọi điều tiếng không hay ông đều bỏ ngoài tai.
Buồn cười thật!
Đành rằng miền Bắc Việt Nam là có trước miền Nam, dân Việt từ miền
Bắc mà Nam tiến
theo chiều dài lịch sử mở nước và dựng nước, nhưng đâu đơn giản là kẻ ra đi
(Nam tiến) kém hơn người ở lại? Sao ông cả gan dám nói về đề tài mà ông không
từng học hành?
Tri thức cải biên Lê-Mao của ông không bao gồm môn lịch sử, xã
hội học, dân tộc học… Trong lịch sử Việt Nam chưa có một ông vua hay quan nào
dám phát biểu như vậy. Trong thời đại này, cái ý tưởng ấy lại càng dị hợm hơn.
Nó lạc hậu về mọi loại kích thước.
Và lại nữa, phải là người “có lý luận”. Cái lý luận thì xưa nay
vốn vô cùng vô tận. Mà thế nào là “có lý luận”? Mà có nhất thiết phải là lý luận
Lê-Mao theo cái ông học và cách ông hiểu, mới được gọi là lý luận chăng?
Ông
muốn kích hoạt cho tinh thần người miền Bắc nhằm tạo
vây cánh, hay
chỉ muốn loại trừ
những người ở phía Nam mà lý luận bốc đồng như thế? Đằng nào thì cũng không
ổn! Phát biểu ấy, nếu ông sinh hoạt trong một chi bộ nghiêm khắc nào đó, có thể
bị kiểm điểm ít nhất là ba ngày chưa xong, và bị hạ tầng công tác, vì ngoài cái
tính nói càn, lại mắc phải tội kỳ thị địa phương, gây mất đoàn kết trong bộ Đảng
và trong nhân dân.
Xóm tôi ở có khối người “có lý luận”, kể cả lý luận Mác-Lê, mà
thuộc loại origin nữa, họ học và đọc từ nguyên bản chứ chẳng phải từ sách chế,
mà hà tất phải là người Bắc mới có. Mà cũng có cả người Bắc di cư vào từ 1945,
1954, 1975 và liên tục cho đến nay, không thiếu, mà cũng giỏi lý luận lắm. Xác
định cái sự “có lý luận” bởi cái bằng “Mác-Lê – Xây dựng Đảng” như ông, thì cũng
có người có nốt, tuy ít người thích học, và cũng không dám khoe khoang.
Theo ý
ông, dù người có lý luận như ông mà không phải là người Bắc là không được, mà
dù người Bắc như ông mà không có lý luận – giống như ông – cũng không được. Thì
chỉ còn ông thôi, đúng không? Cũng có nhiều người bàn luận về chuyện này, và họ
cười ngất trong quán xá và các chỗ vui chơi.
Thực tế phải thừa nhận ông là người miền Bắc, và
có lý luận – dù
cái lý luận ấy ra sao – ông vẫn rất độc đáo và không thể không nổi tiếng: trong
lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, nay mới có một Tổng Bí thư như thế!
Đặc điểm 3: Một người không tham
vọng quyền lực.
Để hướng dẫn/khống chế đại biểu trong chuyện bầu cử Quốc hội, ông
đã ra chỉ thị rất ngon lành: “không đưa vào danh
sách ứng cử những người có tham vọng quyền lực”.
Và cái Chỉ thị 244 do ông đạo diễn đã trắng trợn tước quyền dân
chủ của Đảng viên đại biểu: “không được ứng cử,
không được quyền chấp nhận đề cử” những ai bị khoanh vùng bởi Bộ Chính trị
mà ông là người chủ trì.
Đây là chỉ thị để cả Đảng thi hành. Không những chỉ là Quốc hội,
ông cũng đã đưa ra tiêu chí này khi tiến hành tổ chức Đại hội Đảng 12. Đi sâu
để phân tích cái “Có tham vọng quyền lực” thì tác giả Thuận An đã nói kỹ xin
không lặp lại, nay có lẽ cả quan và dân cả nước đang quẩn chân không biết làm
sao để chứng minh thế nào là “có tham vọng quyền lực”
nằm trong bụng của
ai đó để “không bầu
vào Quốc hội”? Và không có cái tham vọng ấy thì phải có cái gì thay vào đó
chứ?
Chắc cái ấy là loại siêu quyền lực xã hội
chủ nghĩa vốn rất khó hiểu chăng?
Thế mà mọi việc cũng đã xong xuôi. Ông thuyết phục được mọi người
trong Đảng, và mọi người trong Đảng đã để cho ông thuyết phục. Điều đáng kinh ngạc
lần này là ở cái Đại hội Đảng do ông cầm đầu, đã bầu ông. Liệu có gì bí ẩn bên
trong Đảng, hay bên ngoài… biên giới Quốc gia? Chẳng ai tiếc rẻ gì những kẻ ra
đi, nhưng lại ngỡ ngàng về người ở lại.
Có thể phác họa sơ bộ về ông với bốn điểm đậm đặc sau:
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa triệt để (cho Thế
giới thứ 3)
- Người miền Bắc (Việt Nam)
- Có lý luận (Mác-Lênin theo cách mà ông hiểu)
- Không có tham vọng quyền lực (để làm Tổng Bí
thư Đảng Cộng sản Việt Nam)
Đại hội còn có thêm nhu cầu đoàn kết trong Đảng. Thế là ông lập
tức có khả năng đáp ứng thêm nhu cầu thứ năm này nữa, nên chi toàn Đại hội đã
nhất tề bầu ông tiếp tục giữ vai trò Tổng Bí thư thêm một năm hoặc là nửa nhiệm
kỳ nữa (nghe nói thế!).
Ông đã đắc cử vẻ vang như chưa từng có.
Các đối thủ miền Nam của ông, vì không có lý luận mà lại có tham
vọng quyền lực, và tất nhiên không phải là người miền Bắc, phải lập tức khăn
gói về quê, kẻ thả câu, nuôi yến (anh Sáu) người đi chùa (anh Ba), hay người ca
tân cổ giao duyên (anh Tư). Chỉ còn lại mình ên, cực chẳng đã, ông phải chấp
chính cái quyền lực tuyệt vời ấy – mà vốn thực lòng ông không hề muốn, như ông
đã từng gay gắt lên án và cũng từng than thở. Ông cố thắp lên “ngọn nến trong sương
mù Mác-Lê” như
cách nói của ai đó trong một bài báo.
Thông qua lý luận, ông tin rằng chẳng còn ai là xứng tầm đối thủ
của ông trong Ban Chấp hành Trung ương mới, ông lại có những 73 mùa xuân già
cỗi có lý luận,
chắc chắn là ông khiển được, trên dưới sẽ một lòng, nhất hô bá ứng, giữ vững
càn khôn đại cục, chủ nghĩa Mác-Lê sáng quắc, tình hữu nghị Việt-Trung đời đời
vàng chói, với 16 chữ, với các thông cáo chung “chiến lược và toàn
diện” mà ông từng ký kết.
Biển Đông vẫn bình yên, đều đều vỗ sóng xanh (để
ông thong dong tổ chức bầu cử như lời ông nói). Trên biển, trên bờ, cả trên các
thảo nguyên bạt ngàn phấp phới những bóng cờ đỏ, vàng vàng những sáu sao,
ghi hình trên 40 điểm như những vết lở lói, rải đều các nơi nhạy cảm trên cơ
thể Việt Nam.
Tuy nhiên, gió bão không ngừng thổi lên từ đất, từ rừng, từ biển,
từ trời, và từ người.
Có tiếng rào rào của hàng thảo dân khắp nơi lại cho rằng, cả cuộc
đời của ông đã cần mẫn, cạy cục cho cuộc tìm kiếm quyền lực, suốt thời gian từ trước
khi lên chức Tổng Bí thư đỉnh cao hôm nay, ông đã liên miên phát động các chiến
dịch tìm quyền lực dưới các loại lý luận, gây nên
suy thoái mọi mặt của xã hội, mà suy thoái lớn nhất, chính là sự “có lý luận” của
ông đã dẫn đầu cho một cuộc suy vi về lý luận.
Ông nổi bật lên như kẻ cầm đầu
của một dòng chảy bảo thủ vốn và giáo điều đã có trong quy trình của Đảng
ông mấy mươi năm qua, ít nhất từ cái suối nguồn “Hội nghị Thành Đô”
đến nay. Với nhiệm kỳ 5 năm làm Tổng Bí thư đã qua, người dân cho rằng ông đã
đi từ thất bại này đến thất bại khác, và thất bại nào cũng cay đắng cho ông, và
cho đất nước. Lại nhờ cái “không tham vọng quyền
lực” may ra trời cho, ông đạt được “đỉnh cao quyền lực”.
Đại hội 12 mà đồng tình, thì hàng thảo dân cũng đành lòng lý luận: Đảng Cộng sản Việt Nam
lúc này xứng đáng có một Đảng trưởng như vậy. Dân Việt Nam lúc này cũng xứng
đáng có một ông
“vua tốt” như vậy, và cũng đành… chấp nhận nốt một bản “anh hùng ca dang dở” thôi.
Thế rồi lịch sử đã bước sang một trang rất dang dở với sự
thành công rực rỡ của ông. Trên 5.200 quân với bụi mờ và tiếng ầm ì của tăng và
pháo quần thảo quanh Ba Đình, ở bên trong hội trường, thì vang lên cái lý luận siêu phàm,
siêu nhiên, siêu siêu, gọi là trời ơi cũng được, đã làm cho cả nước hồi hộp: “Tình trạng suy thoái,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, có mặt còn
diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường”.
Trong bối cảnh ảm đạm sau bức màn sân khấu, thế là Đại hội đã kết
thúc, và một chiến dịch mới ra đời rất bề thế. Và có nguyên một “Ông Đội
trưởng” hẳn hoi từ đó bước ra.
Ông Đội trưởng “Đội cải cách”!
Xem tác phẩm “Ba người khác” của
Tô Hoài thì phác họa được chân dung của ông “Đội trưởng” Đội cải cách ruộng đất
vào thập niên 60 ở Miền Bắc, một chiến dịch nổi tiếng, được Đảng ngợi ca là “long trời lở đất” với vai trò nổi
bật của ông Đội trưởng. Ý nghĩa chung của chiến dịch là vô cùng khủng khiếp. Mà
kết quả sau đó là có nước mắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và sự mất chức Tổng Bí
thư của ông Trường Chinh. Nhưng chân dung “Ông Đội trưởng” thì không phai mờ
qua thời gian!
Và chân dung ấy đang sừng sững tái hiện vào lúc này, với chiến
dịch có tên mới là “Cải
cách tham nhũng”, cũng hứa hẹn sẽ long trời lở đất
chăng?
Nhiều người cho rằng dư luận đáng ân hận vì đã nhầm to khi người
ta – xuất phát từ người miền Bắc có lý luận, trước khi lan truyền cả nước – đặt
tên cho ông là Lú, bởi thực tế đã không hẳn ông giống như tên gọi này. Với khẩu
hiệu chống kẻ có
tham vọng quyền lực, ông đã hoàn thành việc chiếm được trọn vẹn quyền lực
một cách không thể ngoạn mục hơn.
Từ tháng Ba năm nay, bây giờ là tháng
10/2016, trong 7 tháng tiếp tục cầm quyền với tư cách Tổng Bí thư lần hai, cả
nước đang trở nên rối mù thêm nữa. Và ngay từ cái ngày Đại hội ở Ba Đình diễn
ra thì cụ Rùa Hồ Gươm đột ngột ra đi, như báo một điềm xui: thiên tai, địch họa,
nhân họa và cả Đảng họa đã liên
miên xảy ra. Cái lỗi
hệ thống đã làm nhễu nhão cả khung sườn lãnh đạo quốc gia, từ lý thuyết tư
tưởng đến thực tế, kinh tế, giáo dục, đạo đức… mọi sự tệ hại lớn nhỏ xảy ra trên
khắp xứ sở. Những bất ngờ, bất định, bất ổn không thể dự đoán trước, ngày càng
xảy ra rộn ràng hơn.
Một sự suy sụp triệt để, từ vĩ mô đến vi mô.
Ông Trọng, như một người hùng Don Quixote với chiếc “Cối xay gió” trong
tiểu thuyết của nhà văn Tây Ban Nha Miguel de Cervantes(2). Ông cũng khởi sự
phát huy quyền lực của mình sâu rộng thêm, và như lẽ thường, ông đang đứng
trước các phản động lực ngày càng gay gắt hơn, ông càng xoay người thì gió càng
thốc tới, bởi tính “tự diễn biến” của nó mà ông hết sức không ưa.
Và như dân gian thường nói, gió ngược càng mạnh, chiếc diều sẽ bay
cao hơn.
Ông sẽ bay cao hơn chăng, có thể cao tít tới trời xanh không
chừng! Ông cũng đang trang bị cho mình chiếc áo giáp của phi hành gia, và xông
xáo vào khắp các ngả đường làng. Cái ghế Tổng Bí thư Đảng – chiếc áo Chủ tịch
Quân ủy Trung ương, chưa đủ! Ông mặc thêm quần cảnh sát, trang bị luôn súng
ngắn, dùi cui, roi điện… của ngành cảnh sát(3).
Ông Đội trưởng Đội cải cách tham
nhũng chưa có chỉ dấu nào cho thấy sự thành công của chiến dịch.
Ông tiếp
tục bài vọng cỗ biện
chứng mà ông từng đã và đang ca. Qua Hội nghị lần 4 với bài diễn văn chỉ đạo
hội nghị và diễn
văn kết thúc hội nghị
với âm giọng rề rề buồn tẻ, bộc lộ đủ cái lý luận gàn và lòng vòng, mà
nội dung thì không
còn một chút nắng. Cả mở đầu lẫn kết thúc lại nhạt nhòe, đắm chìm trong cơn
mưa lũ bão bùng khắp nước, với cả 100% các loại “lỗi hệ thống” đã
nở hoa. Một loài hoa mà có nhà tiến sĩ văn hóa xã hội chủ nghĩa đã đề xuất làm
Quốc hoa, tên là “hoa cứt lợn”, hay là hoa “mắc cỡ” gì đó.
Để phác họa thời kỳ rực rỡ nhất
này, có bài viết của một quan to vừa rời ghế, là Vũ Ngọc Hoàng, đã tổng kết có
phần xác đáng ở các phần chi tiết. Cái tổng thể thì ông Hoàng chỉ đề cập hơi
nghiêng nghiêng. Ông Hoàng không nói về cái gì tương tự như “lỗi hệ thống” như
ông nguyên Chủ tịch Quốc hội trước đây – Nguyễn Văn An – đã nói, bởi cái cụm từ
ông An dùng đã là quá tế nhị, đã có chừa vùng cấm. Thuở ông
An nói khi còn ngồi ghế, trong bối cảnh ấy dù không phải là sớm, nhưng cũng gọi
là dũng cảm vì đã dám hé lộ nguyên hình của một sự thật căn cơ không tốt đẹp
gì. Nhưng cũng chỉ được có từng ấy!
Ông Hoàng có thể tăng ga thêm một chút nữa
được không? Bởi bây giờ đã khác trước nhiều lắm rồi. Người dân đã chấp nhận đi
đầu, bị đánh đập, bắt tù và chảy máu, và đang đứng lên đòi quyến sống, dõng dạc
nói lên tiếng nói của mình. Đã có tiếng súng hoa cải của Đoàn Văn Vươn, lại mới
có hoa cải ở Đắc Nông, đã có 6 phát súng Colt của Đặng Ngọc Viết, lại có 8 phát
K59 ở Yên Bái.
Đã có dân của bốn tỉnh miền Trung với Formosa, đã có những ngày Chủ nhật Hà Nội - Sài Gòn như
vừa qua… Đã có những người như linh mục Antôn Đặng Hữu Nam với hàng vạn giáo
dân của mình đã thắp lên một ngọn đuốc sáng, có MC Phan Anh với tư cách một cá nhân
riêng lẻ và mấy lời kêu gọi trên mạng, đã có hơn hai chục tỉ đồng đóng góp
trong một thời gian ngắn. Các chỉ dấu ấy chứng tỏ lòng dân không có sự sợ hãi
mà người gieo rắc đã mong chờ. Và đa số người dân, bên ngoài được xem là thầm
lặng, nhưng bên trong lại chứa đầy nhiệt huyết!
Hãy tin đó là một sức mạnh thật sự có. Sức mạnh của nước.
Đợi chờ gì từ một nơi hoang tưởng nhập nhằng, khi đánh chuột sợ vỡ bình,
đánh tham nhũng là
ta đánh ta? Đúng như lời ông ấy nói, chống tham nhũng khó thật! Nên chăng,
chỉ cải cách cái cách tham nhũng
thôi, để không rơi vào thế nghịch, ta lại đánh ta?
Trời mưa trút nước, lũ lụt dâng cao, đồng xanh lúa chết, người và
súc vật cùng một thân phận lao đao. Với thứ lý luận phá sản, loài sâu tham
nhũng gặp thời, đang có trong tay vùng đất hứa, vẫn sinh sản tốt và đang phát triển
ổn định. Như
hãng nước mắm hóa chất Masan đang tận dụng nhanh chóng cơ hội phát huy tác
dụng, như hãng xe Mai Linh đang làm cánh tay nối dài…
Câu hỏi vẫn còn nguyên đây, Nguyễn Phú Trọng, thực ra ông là ai?
Không phải Lú, không phải là Ông Giáo Làng. Nhân loại vẫn sợ người cuồng tín.
Và Đảng của ông đang làm gì trước những hỗn độn rất “chiến lược và toàn
diện” này?
Mỗi lần có sự bế tắc trên thực tiễn, thì những chùm từ ngữ mới,
cách nói mới xuất hiện, như một giải pháp có tính vô hình, như một sự đánh đố
vô nghĩa. Một thời hỗn loạn, có khái niệm “làm chủ tập thể” ra
đời. Một thời bế tắc, thì xuất hiện kẻ thù “quan liêu bao cấp”.
Cái khó hôm nay thì bên ngoài có “Việt Tân” lãnh
tiếng, kế tiếp bên trong là “thằng tham nhũng”
nào đó lãnh đủ, vừa được gọi tên thêm là thằng “ta đánh ta”. Lý
luận vòng quanh lâu ngày cũng thấy đơn điệu! Vì thế, ông Nguyễn Phú
Trọng vừa nhả bóng lại cho Hội đồng Lý luận Trung ương những câu hỏi bắt bí,
làm quẩn chân các ông “Hội đồng” vốn đã quẩn chân lâu nay, về những sản phẩm do
chính ông chế tác, với cái yêu cầu có chút thần thánh: Yêu cầu Trung ương “tiếp tục đổi mới với
tinh thần kiên định
và sáng tạo”.
Thật là khó lòng phải nhắm mắt (để
kiên định), lại vừa phải mở mắt (để
sáng tạo). Sau đó, ông vo tròn một gói giải pháp gọi là “Năm là”, và
suýt bóng. Nhưng quả bóng đã hóa thành một thứ văn chương rổn rảng, rỗng đến
không gì bằng ở mỗi cụm từ của nó:
“Con đường đi lên (!) chủ nghĩa xã hội (?) của
Việt Nam dù còn nhiều khó khăn (!), gian khổ (!), nhưng là con đường đúng đắn
(?), sáng tạo (?). Lẽ phải thuộc về chúng ta (?). Cần chú trọng đấu tranh trên
mặt trận (!) tư tưởng, lý luận; đấu tranh không khoan nhượng (!) bằng những
luận cứ khoa học sắc bén (!), giàu sức thuyết phục, bằng sức mạnh của niềm tin (!)
không thể lay chuyển(!) vào chân lý, làm thất bại mọi mưu toan, hành động xuyên
tạc (!), kích động (!), chống phá (!) Đảng, chế độ và sự nghiệp đổi mới (?) của
đất nước”.
Sự hoang tưởng đến đây thì đủ rõ. Tư duy - lý luận bề bộn thế này
không thể cứu vớt được ông Tổng Bí thư, dù ông rất tự tin! Là một giỏ chứa đầy
những ý nghĩ bảo thủ, trộn với các ý niệm bạo lực, và những nhân danh hơi lớn.
Biết thế, nên ông đã động viên các ông “Hội đồng Lý luận”: “Nghiên cứu lý luận là
công việc khó khăn, vất vả nhưng tràn đầy niềm vui sáng tạo (ôi!). Lý luận
không phải là khô khan như có người tưởng, trái lại, rất sống động và thú vị
(ôi!), bởi nó phản ánh quy luật vận động muôn màu muôn vẻ của cuộc sống (ôi!),
bởi đó là sự khám phá chân trời trí tuệ không giới hạn (ôi chà!), nó là kim chỉ
nam (ôi chao!) cho hành động của chúng ta”.
Vâng, niềm
vui là chính? Quả là nỗi thú vị đắng cay!
Để hòa niềm vui vào công cuộc nghiên cứu lý luận
được đề nghị, tôi gợi ý bà con nên nghiên cứu về ông ấy,
chắc cũng là rất
sống động và thú vị sẽ mênh mông. Để bớt băn khoăn và dễ tưởng tượng, cần
gọi đúng tên, cái mà ông Trọng đang chỉ huy, là “Đội Cải Cách Tham
Nhũng” mà chính ông thủ vai Đội trưởng. Sau đó, ráng nổ súng lên trời,
như lời ông Thủ tướng
Phúc đã nói và đang
nổ, để bảo vệ Đảng. Và lệnh cho cánh dư luận viên la ầm
lên là cuộc cải cách tham nhũng đang “long trời lở đất”.
Cứ hãy đem “lý luận”
mà trấn áp thực
tiễn theo cách không
khoan nhượng của ông ấy! (Vì thế ông đã vào vai Công an?)
Cho đến một hôm “Dân ta vùng lên như
bão tố. Dân ta vùng lên như cuồng phong…” (Nhạc sĩ Tôn Thất Lập - thời
chống Mỹ) để chấm dứt cái phương châm tai họa “đúng quy trình”,
trên cơ sở cái quy
trình không đúng
mà rất hỗn độn ấy.
Để có quy trình đúng là không thể thoát ly tam quyền phân lập.
Lúc ấy vĩnh viễn không còn phương châm “nhất Đội nhì Trời”
và cũng vắng bóng luôn “Ông Đội trưởng”. Lúc ấy lòng dân sẽ
phục sinh, mà không nhất thiết ai đó phải cố lấy lại bằng
cách dao búa./.
H. Đ. N.
__________
(2) Don Quixote nói với những người lái buôn phải khen Dulcinca
del Toboso là người đẹp nhất trần gian và kết thúc bằng một cuộc giao đấu của
chàng với những người lái buôn, vì họ không chịu khi mà họ chưa từng thấy nàng
(như nàng chủ nghĩa xã hội? – người viết). Don Quixote bị đánh nát người và
được một bác nông dân đưa về nhà chăm sóc.
Trước khi chết, Don Quixote tỏ ra là một người nhận thức được tai
hại của những cuốn truyện hiệp sĩ mà mình đã từng đọc khi viết những dòng di chúc
để lại cho đời.
Tác giả gửi BVN.
Dư luận xã hội đang xôn xao phản ứng về việc ban
hành những Nghị quyết rất thiển cận như “Tổng Bí thư phải là người miền bắc,
phải là người có lý luận” thì ngày 4/1/2016 vừa qua, ông Nguyễn Phú Trọng tiếp
tục ký ban hành chỉ thị số 51-CT/TW về lãnh đạo cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội
Khóa 14, trong đó có nội dung yêu cầu “không đưa vào danh sách ứng cử những người
có tham vọng quyền lực” gây nhiều tranh cãi. Xin gửi đến quý độc giả bài viết
của tác giả Thuận An về chủ đề này để cùng thảo luận.
Ngày 4/1/2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Chỉ thị
số 51-CT/TW về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội Khóa 14. Trong chỉ thị có
nêu “không đưa vào danh sách ứng cử những người có tham vọng quyền lực”. Nếu
chỉ đọc lướt qua thì thấy câu này rất chặt chẽ trong việc lựa chọn nhân sự
nhưng suy nghĩ kỹ thì thấy câu này là không đúng, thậm chí là một sai lầm rất
nghiêm trọng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (Ảnh: Xuân Hải)
Trọn cuộc đời của một con người ai cũng có một mong ước, khát vọng đạt được một
vấn đề gì đó cũng có thể coi đó là một tham vọng. Có người tham vọng trở thành
triệu phú, trở thành bác sĩ, luật sư, bác học,... có người làm việc trong cơ
quan công quyền có tham vọng giữ một cương vị gì đó theo khả năng của mình. Nói
như vậy để thấy trong cuộc sống không ai lại không có tham vọng, đó là thuộc
tính của con người, nhờ có tham vọng con người mới trở nên mạnh mẽ, là động lực
để vượt qua khó khăn thử thách, chính nhờ nó mà xã hội loài người mới tiến bộ,
phát triển.
Điều này chứng minh ở các nước tiên tiến, quyền lực là mục tiêu của
chạy đua chính trị, chúng ta chứng kiến những cuộc tranh cử tổng thống, thủ
tướng của các nước rất quyết liệt. Trước hết những nhân vật đó phải là người có
tham vọng quyền lực, thậm chí là đỉnh cao tham vọng của họ. Mục tiêu để giành
được chức tổng thống hoặc thủ tướng không chỉ là vinh quang bản thân mà hơn
thế, họ đều là những người muốn cống hiến, muốn thay đổi để phát triển đất nước
họ.
Vì vậy đạt được tham vọng quyền lực ấy họ phải vượt qua bao nhiêu chặng
đường trong cuộc đua. Họ phải dùng mọi khả năng của mình vượt qua đối thủ, kể
cả việc công khai chỉ trích lẫn nhau. Kết cục những người đạt được tham vọng
quyền lực đều là những người tài ba hơn người khác. Tôi rất tâm đắc với câu nói
bất hủ của Napoleon - nhà quân sự và chính trị kiệt xuất của nước Pháp: “Người
lính mà không ước mơ trở thành tướng là một người lính tồi”.
Ở nước ta, không hẳn đã có chạy đua quyền lực, nhất là trong giai đoạn chiến
tranh, các thế hệ tiền bối đã chiến đấu vì lý tưởng, vì sự cống hiến là trên
hết. Việc sắp xếp vào những cương vị lãnh đạo là do tổ chức lựa chọn trong
những người ưu tú nhất. Những người đó là những người có năng lực, có bảnh
lĩnh, dũng cảm hy sinh. Họ là những người xứng đáng cho các vị trí lãnh đạo mà
hiếm có trường hợp ganh đua nào.
Nhưng thời đại ngày nay đã khác trước rất nhiều, tâm lý chung những người làm việc
trong hệ thống của Đảng và chính quyền không ai lại không ham muốn có được một
chức vụ nào đó ở cấp này hoặc cấp khác. Họ luôn tỏ ra là những người có năng
lực, muốn có quyền lực để được cống hiến, thực hiện mục tiêu của tổ chức cũng
như cá nhân. Người ở trung ương thì muốn có chức vụ cao ở trung ương, người ở
địa phương thì muốn có chức vụ đứng đầu địa phương, đó là lẽ thường tình của
con người.
Bản chất của vấn đề đó là ham muốn quyền lực. Chúng ta phải khuyến
khích những người có khát vọng cống hiến và họ mong muốn ở một cương vị lãnh
đạo nào đó để họ thực hiện khát vọng. Tất nhiên chúng ta phải phản đối những
người mong muốn có quyền lực để tham nhũng hoặc mưu cầu lợi ích cá nhân.
Ở nước ta chưa có những cuộc tranh cử để đạt được quyền lực như các nước tiên
tiến mà diễn ra âm thầm dưới hình thức phấn đấu, hoặc theo quy hoạch của tổ
chức. Muốn hơn người khác thì phải nép mình, gọi là “khiêm tốn, đi nhẹ nói khẽ”
để thể hiện là người không ham muốn quyền lực, luôn tỏ ra thờ ơ với những chức
vụ đặt ra trước mắt; nếu làm được điều đó sẽ đạt được điểm cao nhất, rồi họ
phải thể hiện mọi cách để được tín nhiệm của thủ trưởng cấp trên không chỉ bằng
công việc mà còn là sự “chăm sóc” chu đáo với thủ trưởng. Rồi lại phải thể hiện
sao cho không mất lòng ai trong cơ quan đơn vị. Kể ra thì còn nhiều chuyện nữa.
Qua đây có thấy cuộc chạy đua vào quyền lực ở nước ta còn khó khăn gian khổ hơn
rất nhiều so với nước khác.
Nội dung “không đưa vào danh sách ứng cử những người tham vọng quyền lực” trong
chỉ thị của ông Nguyễn Phú Trọng lại càng khích lệ những hoạt động như trên của
người có tham vọng quyền lực. Đặc biệt họ phải bằng mọi cách để giấu được ý
nguyện (tham vọng) của mình để cơ quan, tổ chức và thủ trưởng không nhận xét mình
là người có tham vọng quyền lực.
Nếu thực hiện theo chỉ thị của ông Nguyễn Phú Trọng thì đội ngũ
cán bộ trong hệ thống chính trị nước ta gồm những loại người nào?
Có thể kết luận, dưới sự lãnh đạo của ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sắp tới
đây đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị nước ta chỉ gồm hai loại người:
- Loại người thứ nhất toàn là người nói dối.
- Loại người thứ hai là thờ ơ, không thiết tha gì với chức vụ mà họ được đề cử.
Nhìn vào đội ngũ của một quốc gia toàn những người như vậy thì làm sao đất nước
phát triển được?
Cuối cùng, tạm nêu một câu hỏi: Ông Nguyễn Phú Trọng là loại người nào?
Thuận An
__._,_.___
Posted
by: Dien bien hoa binh <