Việt-Trung 'chia sẻ lợi ích'
- 1
giờ trước
Đặc phái viên của Tổng bí thư Đảng CSVN sang Trung Quốc
"thông báo trực tiếp" kết quả Đại hội XII tới lãnh đạo Bắc Kinh.
Ông Hoàng Bình Quân, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, Đặc phái
viên của ông Nguyễn Phú Trọng, đã hội kiến Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình
hôm thứ Hai 29/2.
Thông tấn xã Việt Nam nói ông đặc phái viên "trân trọng
chuyển tới Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thông điệp của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng cảm ơn ông Tập Cận Bình đã gửi thư mừng và cử Đặc phái
viên sang chúc mừng thành công của Đại hội XII".
Ông Hoàng Bình Quân đã giới thiệu với ông Tập Cận Bình về kết quả
đại hội, đồng thời khẳng định "Đảng CSVN kiên định chủ nghĩa Marx-Lenin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội..."
Đáp lại, ông Tập Cận Bình "đánh giá cao" việc ông
Nguyễn Phú Trọng cử đặc phái viên trực tiếp thông báo kết quả đại hội.
Tân Hoa Xã dẫn lời ông Tập nói "Trung Quốc và Việt Nam cùng
chung số phận, cũng như hai đảng cộng sản của hai nước".
Ông cũng nhấn mạnh: "Phát triển quan hệ Trung-Việt là trách
nhiệm lịch sử của chúng ta, phù hợp lợi ích căn bản của hai nước và nhân dân
hai nước".
Bản tin của hãng thông tấn nhà nước Trung Quốc nói ông Tập khẳng
định "Đảng và Chính phủ Trung Quốc hết sức coi trọng quan hệ Trung-Việt,
nguyện kiên trì trước sau như một phát triển quan hệ lâu dài, bền vững với Việt
Nam theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt", nhưng không đề cập tới
các vấn đề cụ thể.
Trong khi đó, Thông tấn xã Việt Nam tường thuật: "Bày tỏ
quan điểm của Việt Nam về tình hình trên Biển Đông, Trưởng ban Đối ngoại Trung
ương Hoàng Bình Quân đề nghị hai bên cần tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau,
thực hiện nghiêm túc nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước và
các thỏa thuận đã đạt đươc".
Ông Quân cũng yêu cầu hai bên "không tiến hành các hoạt động
đơn phương thay đổi nguyên trạng, làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, không quân
sự hóa, cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông".
Mới đây Việt Nam phản đối gay gắt việc Trung Quốc tăng cường
hiện diện quân sự trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam cũng
tuyên bố chủ quyền.
Đang có quan ngại rằng Trung Quốc có thể áp đặt vùng nhận dạng
phòng không ADIZ trên Biển Đông, động thái chắc chắn sẽ làm quan hệ
Việt-Trung thêm căng thẳng.
Biển Đông : Giải mã phản ứng cứng rắn của Việt Nam chống Trung
Quốc
Phát Thứ hai, ngày 29 tháng hai năm 2016
Tàu tuần duyên của Trung Quốc (màu trắng) đối diện với tàu cảnh
sát biển Việt Nam, cách bờ biển Việt Nam khoảng 210 km (130 hải lý),
14/05/2014.REUTERS/Nguyen Minh/Files
Ảnh vệ tinh do Hoa Kỳ công bố trong thời gian gần đây đã vạch trần
các hành vi quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc. Hành động của Bắc Kinh không chỉ
phớt lờ các tuyên bố chủ quyền của Hà Nội trong khu vực, mà còn trực tiếp đe
dọa an ninh của Việt Nam. Trước các hành động đó, Việt Nam đã có một loạt phản
ứng được giới phân tích đánh giá là nhanh chóng và cứng rắn hơn đối với Trung
Quốc. Trả lời RFI qua thư điện tử, giáo sư Carlyle Thayer cho rằng đã có « đồng thuận » trong giới lãnh đạo mới tại
Việt Nam là cần phải quyết đoán hơn.
Vào tháng 9 năm ngoái 2015, nhân chuyến viếng thăm Mỹ, chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình đã công khai cam kết là Bắc Kinh sẽ không quân sự hóa
Biển Đông. Lời hứa này đã nhanh chóng bị thực tế hiện trường chứng minh là lời
hứa suông.
Bằng chứng do các phương tiện truyền thông Mỹ cũng như Trung Tâm
Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế CSIS tại Washington công bố trong tháng Hai
2016 này, cho thấy là Bắc Kinh đã cho triển khai tên lửa địa đối không Hồng Kỳ
HQ-9, đồng thời cho điều hai loại chiến đấu cơ Thẩm Dương J-11 và Tây An JH-7
đến đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Ảnh vệ tinh mới nhất cũng cho thấy là Trung Quốc vừa củng cố các
phi đạo xây trên đá Chữ Thập (Fiery Cross), Xu Bi (Subi), Vành Khăn (Mischief),
vừa cho xây dựng hệ thống radar tần số cao trên đá Châu Viên (Cuarteron), và
các trạm radar khác trên đá Ga Ven (Gaven), đá Tư Nghĩa (Hughes) và đá Gạc Ma
(Johnson South). Mục tiêu quân sự của các công trình này rất hiển nhiên.
Tố cáo đích danh Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông
Trước các hành động triển khai vũ khí và thiết bị quân sự càng lúc
càng nhiều tại Biển Đông, Việt Nam đã có phản ứng mạnh mẽ về cả về mặt ngoại
giao nhắm vào Trung Quốc, lẫn trên phương diện vận động công luận trong nước và
ngoài nước.
Rõ ràng nhất là lời tố cáo với những nội dung cứng rắn chỉ đích
danh Trung Quốc được phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Hải Bình đưa ra
nhân buối họp báo thường kỳ tại Hà Nội ngày 25/02/2016.
Trước các thông tin theo đó Trung Quốc đã điều chiến đấu cơ ra đảo
Phú Lâm ở Hoàng Sa và đặt hệ thống radar trên một số cấu trúc thuộc quần đảo
Trường Sa, ông Lê Hải Bình đã tố cáo :
« Bất chấp sự phản đối và quan ngại của Việt Nam cũng như của cộng
đồng quốc tế, Trung Quốc vẫn tiếp tục có các hành động không chỉ xâm phạm nghiêm
trọng chủ quyền của Việt Nam, thúc đẩy quân sự hóa ở Biển Đông, mà còn đe dọa
hòa bình, ổn định ở khu vực và an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không ở
Biển Đông. »
Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam cũng gián tiếp lên án các
hành vi vô trách nhiệm và vi phạm luật lệ quốc tế của Bắc Kinh tại Biển Đông
khi « yêu cầu Trung Quốc có những lời
nói, hành động trách nhiệm và mang tính xây dựng trong việc duy trì hòa bình,
ổn định ở khu vực cũng như trên thế giới trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc
tế, nhất là Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 và Tuyên bố về ứng xử
của các bên ở Biển Đông DOC ».
Trước đó, ngày 19/02, khi phản đối việc Trung Quốc xây dựng căn cứ
trực thăng quân sự trên đảo Quang Hòa (Duncan Island) và bố trí tên lửa phòng không
HQ-9 trên đảo Phú Lâm (Hoàng Sa), phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam cũng đã
lên tiếng « yêu cầu Trung
Quốc chấm dứt ngay các hành động sai trái đó ».
Không chỉ thế, ngoài thông lệ là chuyển công hàm phản đối đến đại
diện ngoại giao Trung Quốc ở Hà Nội, Việt Nam còn gởi tuyên bố phản đối lên
Liên Hiệp Quốc, yêu cầu định chế quốc tế này cho lưu hành công hàm phản đối Bắc
Kinh đến mọi thành viên, qua đó đánh động quốc tế về các hành vi « sai trái » của Trung
Quốc.
Lên tiếng ủng hộ việc Mỹ can dự vào Biển Đông
Cũng trong lãnh vực ngoại giao, Việt Nam đã công khai hóa quan điểm
ủng hộ vai trò của Mỹ tại Biển Đông, bất chấp những lời tố cáo được Trung Quốc lập
đi lập lại là Washington không có tư cách can dự vào khu vực.
Trong một tuyên bố hiếm hoi về các hoạt động quân sự của Mỹ tại
Biển Đông, ngày 31/01 vừa qua, phát ngôn viên Việt Nam đã lên tiếng tán đồng
chiến dịch bảo vệ quyền tự do hàng hải được Hải Quân Mỹ tiến hành một hôm trước
đó khi cho khu trục hạm USS Curtis Wilbur tiến vào bên trong vùng 12 hải lý của
đảo Tri Tôn (Hoàng Sa) đang tranh chấp với Việt Nam, nhưng hiện do Trung Quốc
kiểm soát.
Theo ông Lê Hải Bình, Việt Nam có « chủ quyền không thể tranh cãi... đối với quần đảo
Hoàng Sa cũng như quần đảo Trường Sa », nhưng Việt Nam « tôn trọng quyền đi qua vô hại trong lãnh hải được
thực hiện phù hợp với các quy định có liên quan của luật pháp quốc tế ».
Không chỉ ủng hộ các hành động của Washington, Việt Nam thậm chí
còn công khai kêu gọi Mỹ dấn thân sâu hơn nữa vào Biển Đông. Trong cuộc tiếp
xúc song phương với tổng thống Mỹ Barack Obama ngày 16/02 bên lề hội nghị thượng
đỉnh Mỹ-ASEAN tại Sunnylands (California, Hoa Kỳ), thủ tướng Việt Nam Nguyễn
Tấn Dũng đã không ngần ngại yêu cầu Mỹ có những hành động mạnh mẽ hơn nữa tại
Biển Đông.
Thông cáo của bộ Ngoại Giao Việt Nam nói rõ : « Thủ tướng đề nghị Mỹ có tiếng nói mạnh mẽ và những
hành động thiết thực hơn, hiệu quả hơn để yêu cầu chấm dứt mọi hoạt động làm
thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông, nhất là việc xây dựng các đảo nhân tạo với
quy mô lớn. Thủ tướng cũng đề nghị Washington có lời nói và hành động giúp chấm
dứt ngay việc quân sự hóa ở Biển Đông..., tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong vấn đề
tăng cường năng lực thực thi pháp luật trên biển, hỗ trợ kỹ thuật cho lực lượng
cảnh sát biển. »
Vận động dư luận trong nước
Thái độ cứng rắn hơn đối với Trung Quốc không chỉ thể hiện trong
lãnh vực ngoại giao. Không phải là ngẫu nhiên khi ngày 17/02 vừa qua, tại hai thành
phố lớn của Việt Nam là Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh đã diễn ra lễ tưởng
niệm 37 năm cuộc chiến tranh ngắn nhưng đẫm máu ở biên giới Việt-Trung, khi
Trung Quốc tung hàng trăm nghìn quân vượt qua biên giới đánh vào Việt Nam.
Dĩ nhiên là trên nguyên tắc, các cuộc tập hợp không được chính
quyền Việt Nam cho phép, nhưng buổi lễ đã diễn ra tương đối êm thắm tại Hà Nội,
còn tại Sài Gòn thì vẫn còn việc công an tìm cách ngăn cản những nhân vật chủ
chốt đến nơi làm lễ kỷ niệm.
Điều cũng cần ghi nhận là trên báo chí chính quyền số lượng bài
viết về cuộc chiến tranh chống Trung Quốc khá nhiều, cho thấy là chính quyền
cũng lơi là kiểm duyệt đối với một vấn đề cấm kỵ trong một thời gian dài.
Bên cạnh đó, như báo chí trong nước đã ghi nhận, ngày 17/02, chính
chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đã đến thắp hương trên từng ngôi mộ tại Nghĩa
Trang Liệt Sĩ Trà Lĩnh ở tỉnh Cao Bằng, gần biên giới với Trung Quốc, nơi chôn
cất hơn 300 người đã hy sinh trong cuộc chiến chống lại Trung Quốc xâm lược vào
năm 1979.
Nhân dịp lễ kỷ niệm cuộc chiến này, báo chí chính thức cũng tích
cực tham gia vào cuộc tranh luận về việc đưa các chủ đề như cuộc chiến tranh
biên giới Việt-Trung, chiến tranh biên giới Tây Nam, vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa
vào sách giáo khoa.
Vấn đề này chính thức được đèn xanh của chính phủ, theo như nhận
định của ông Nguyễn Vinh Hiển, thứ trưởng bộ Giáo Dục, cho rằng cần phải xem
xét việc đưa các nội dung vào sách giáo khoa «
với dung lượng phù hợp ».
Giáo sư Carl Thayer : Đã có đồng thuận là phải cứng rắn hơn
Nhìn chung, Việt Nam như vậy là đã có phản ứng cứng rắn hẳn lên
trước các hành vi lấn lướt của Trung Quốc tại Biển Đông, khác hẳn với thái độ nhiều
khi bị đánh giá là quá thận trọng trong thời gian trước đây.
Để giải mã thay đổi này, RFI đã đặt một số câu hỏi cho giáo sư
Carlyle Thayer, nhà nghiên cứu kỳ cựu về Việt Nam tại Học Viện Quốc Phòng Úc (Đại
Học New South Wales).
Trả lời phỏng vấn của RFI qua thư điện tử, giáo sư Thayer trước
hết ghi nhận sự đồng thuận hiện nay trong giới lãnh đạo Việt Nam, đã nhất trí
là cần phải kiên quyết hơn đối với các hành động đe dọa an ninh và chủ quyền
Việt Nam đến từ phía Trung Quốc.
Thayer :
Giàn lãnh đạo mới tại Việt Nam giờ đây đã được ổn định
sau những thay đổi ở Đại Hội Đảng lần thứ 12. Sau một giai đoạn phân định trách
nhiệm và các ưu tiên, bây giờ ban lãnh đạo Việt Nam đang bắt tay vào việc giải
quyết các vấn đề đối ngoại.
Tâm lý chống Trung Quốc trong công luận Việt Nam hiện đang lan
rộng, điều mà lãnh đạo Việt Nam phải lưu ý. Trong nội bộ các lãnh đạo, đã xuất
hiện một suy nghĩ đồng thuận là Việt Nam cho đến gần đây đã chưa quyết đoán
đúng mức trong việc khẳng định quyền lợi quốc gia dân tộc, đặc biệt là trong
vấn đề chủ quyền ở Biển Đông.
Những hành động mới đây của Trung Quốc đã làm dấy lên mối quan
ngại chính đáng về an ninh quốc gia đối với hơn 20 thực thể địa lý và tiền đồn
ngoài khơi của Việt Nam trên Biển Đông.
RFI
: Các động thái cứng rắn
của Việt Nam có khác thường hay không vì Hà Nội thường thận trọng hơn trong
việc chỉ trích Trung Quốc?
Thayer
:Việt Nam đã từng đưa vấn đề Biển Đông ra trước
Liên Hiệp Quốc trước đây, và trong những năm gần đây, cũng đã cho phép báo chí
trong nước đưa nhiều thông tin về cuộc chiến tranh biên giới năm 1979.
Cách đây 2 năm, bản thân tôi có tham gia một chương trình thu hình
trước của một phim tài liệu dài 3 tiếng đồng hồ, do của đài truyền hình Việt Nam,
nhân kỷ niệm 35 năm cuộc chiến tranh biên giới. Tuy nhiên chương trình đã bị
gác qua một bên và chưa hề được phát.
Các động thái hiện thời của Việt Nam phản ảnh tâm lý (chống Trung
Quốc) của dân chúng cũng như quan điểm của đại đa số cán bộ trong đảng và quân
đội đã về hưu, nhất là nơi các nhà ngoại giao đã từng làm việc ở Trung Quốc.
RFI : Việt
Nam cũng dự định đưa cuộc chiến tranh biên giới chống Trung Quốc năm 1979 và
vấn đề chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa vào sách giáo khoa. Giáo sư nhận xét thế
nào về sáng kiến này?
Thayer :Các sáng kiến trong lãnh vực giáo dục đó phản ánh đồng thuận trong
đảng Cộng Sản là Việt Nam phải mạnh dạn và thẳng thắn hơn trong việc xử lý các
vấn đề đó.
Chủ trương này một phần bắt nguồn từ lập luận là Trung Quốc đã
khéo lợi dụng sự gắn bó về mặt ý thức hệ Cộng Sản giữa hai bên để bịt miệng
Việt Nam.
Thế
nhưng thái độ tự kiềm chế không còn được Việt Nam áp dụng được nữa sau khi bị
mất tin tưởng nghiêm trọng nơi Trung Quốc từ sau cuộc khủng hoảng giàn khoan
HD-981 vào năm 2014.
RFI : Một
số chuyên gia phân tích nghĩ rằng với việc ông Nguyễn Phú Trọng tiếp tục làm
tổng bí thư, và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rời khỏi chính quyền, Việt Nam sẽ hòa
hoãn hơn với Trung Quốc. Giáo sư có cho rằng các phân tích trên đây là sai
không?
Thayer :
Tôi thực sự nghĩ rằng ông Nguyễn Phú Trọng sẽ thận
trọng hơn. Quan điểm cứng rắn của Việt Nam (đối với Trung Quốc) hiện nay phản
ánh sự đồng thuận của tập thể lãnh đạo mới. Ông Trọng đã thành công trong việc
cản đường ông Dũng, nhưng ông Trọng phải chịu trách nhiệm trước một Bộ Chính Trị
và Ban Chấp Hành Trung Ương mới.
Một dấu hiệu cho thấy khả năng thay đổi là theo một số nguồn tin
không công bố, người được cho là sắp được đề cử làm bộ trưởng Quốc Phòng mới,
tướng Ngô Xuân Lịch, có thể dành chuyến đi nước ngoài đầu tiên cho Hoa Kỳ.
RFI : Tại
hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN ở Sunnylands, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng
đã yêu cầu tổng thống Mỹ Obama là Hoa Kỳ nên « có những hành động thiết thực hơn, hiệu quả hơn để
yêu cầu chấm dứt mọi hoạt động làm thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông, đặc biệt
là việc xây dựng các đảo nhân tạo với quy mô lớn, chấm dứt ngay việc quân sự
hóa ở Biển Đông ». Theo giáo sư, có thể xem đây là phát biểu mạnh
nhất trong số các phát biểu của lãnh đạo ASEAN tại hội nghị hay không ?
Thayer :Nhận xét của thủ tướng Dũng rõ ràng là tuyên bố công khai mạnh bạo
nhất được đưa ra ở thượng đỉnh Sunnylands. Nhận định của ông Dũng phản ánh đánh
giá từ lâu nay của tôi về Việt Nam.
Lãnh
đạo Việt Nam thường hay nói với các quốc gia, đặc biệt là Hoa Kỳ, rằng quyền
lợi thiết thực của các nước đó là gì. Nói cách khác, Hoa Kỳ có lợi ích thiết yếu
trong việc bảo vệ quyền tự do hàng hải tại Biển Đông và làm đối trọng chống lại
sự quyết đoán của Trung Quốc.
Trường
hợp ở đây tựa như Việt Nam nói « Tôi (tức là Việt Nam) có thể nghĩ vậy, nhưng mà
anh (tức là Mỹ), có thể hành động ».
Chúng
ta có lẽ sẽ còn nghe nhiều phát biểu hơn từ ông Dũng vì ông sẽ rời khỏi chức vụ
trong vòng năm tháng nữa nên có thể nói nhiều hơn về Trung Quốc một cách công
khai.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment