Nói thật cho
nhau nghe! (Kỳ 12)
Mạnh
Trí (Biên tập)
16- Câu chuyện thứ 16:
Việt Nam là đất nước của “Lạm phát”!
Mồng 10 Tết Ất Mùi 2015 vừa qua, nhóm biên tập chúng tôi lại về HĐ
thăm và dự cuộc giao lưu đầu xuân của nhóm “trí thức làng” ven đô. Chủ đề bàn
thảo hôm nay được các bạn ấy đề xuất là “Mở rộng từ điển Tiếng Việt cho từ Lạm
phát”. Rất rôm rả và cũng rất thú vị! Sau đây là phần biên tập của chúng tôi về nội dung tranh luận của nhóm.
Theo Từ điển Tiếng Việt (của nhóm cố GS Hoàng Phê) thì từ Lạm phát
được định nghĩa là: “Phát hành tiền giấy vượt quá mức nhu cầu lưu thông hàng
hóa, làm cho đồng tiền mất giá”.
Chúng ta đã từng được học môn Kinh tế chính trị học, và đã được nghiên
cứu hiện tượng lạm phát của thế giới (tất nhiên chủ yếu là qua sách báo) thì
đều hiểu đây là một hiện tượng trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng của nền
kinh tế, với đối tượng lạm phát là Tiền.
Từ đây, chúng ta cũng đã nhận ra các
dấu hiệu cơ bản như: – Bao trùm là một hiện tượng bùng phát bất thường về số lượng (với đồng
tiền) – Vượt quá khả năng và điều kiện bảo
đảm cho việc tăng phát đó (bảo đảm bằng hàng hóa) – Vượt quá nhu cầu, không xuất phát từ yêu cầu của thực
tiễn (lưu thông hàng hóa) – Vượt quá tầm kiểm soát, quá ngưỡng cho phép
(của cơ chế quản lý nền kinh tế) – Hậu quả là giảm sút giá trị của đối tượng tăng phát (mất
giá đồng tiền).
Thế mà trong sự phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) hiện nay, chủ
yếu là sau đổi mới, chúng ta thấy trong nhiều lĩnh vực khác cũng có những hiện
tượng tương tự, tức là cũng có những biểu hiện, những dấu hiệu bản chất như
trên (nếu không để ý đến sự khác nhau về đối tượng). Và người Việt ta, không ai
bảo ai, lập tức mở rộng khái niệm “Lạm phát” cho toàn bộ đời sống XH. Sự mở
rộng này đã lấy các dấu hiệu trên làm tiêu chí nhận dạng đối với hiện tượng
“Lạm phát” khác lĩnh vực Tiền.
Đúng, rất đúng đấy. Này nhé, “lạm phát” đại học, “lạm phát” tướng lĩnh, “lạm phát” học vị,
học hàm (ThS, TS, PGS, GS), “lạm phát” các danh hiệu nhà nước (anh hùng, ND,
ƯT, …), “lạm phát” khen thưởng, “lạm phát” tệ nạn xã hội, “lạm phát” bắt bớ, tù
đày, “lạm phát” phục hồi lễ hội, “lạm phát” văn hóa “tâm linh”, “lạm phát” các
cuộc thi, các giải thưởng, “lạm phát” các chương trình Truyền hình trực tiếp
hoành tráng, “lạm phát” các hoạt động văn hóa ngoại lai, “lạm phát” bia
rượu, “lạm phát” gian dối, lừa đảo, “lạm phát” các lời răn dạy của lãnh đạo,
“lạm phát” nghị quyết, chỉ thị, luật lệ, “lạm phát” nghèo đói, “lạm phát”
bất công, “lạm phát” tham nhũng, “lạm phát” quan chức hư hỏng, “lạm phát”
gái Việt lấy chồng ngoại, “lạm phát” lao động xuất khẩu, v.v. và v.v.
Không biết có nước nào loạn xị “lạm phát” như nước mình không nhỉ?
Đấy là điều bình thường, ở đâu chả vậy, hay là nỗi lo buồn, là thách thức, là
điều đáng xấu hổ chỉ riêng cho Việt Nam chúng ta?
Chúng ta thử phân tích, lý giải một vài cái sự “lạm phát” để xem
hình hài chúng nó ra sao, chúng nó sinh ra từ đâu, với mục đích gì, chúng nó có
hại như thế nào, và làm sao để chấm dứt?
Lạm phát đại học
– “Lạm phát” đại học (ở
đây chỉ bậc ĐH, tức là bao gồm tất cả các trường ĐH và Cao đẳng) là lĩnh vực
liên quan đến con cháu chúng ta, mà xem ra số đông các gia đình đều đang quan
tâm. Hiện nay cả nước có 412 các trường ĐH & CĐ, trong đó khối ngoài công lập
là 62, khối trường quân đội và công an là 35, khối trường ĐH công lập cấp tỉnh
là 24 (chưa kể đến khối CĐ nghề mới phát triển). Ngoài các chỉ tiêu đào tạo
chính quy tập trung rất lớn, lại còn các chỉ tiêu đào tạo tại chức cũng không
hề ít, với đa dạng và rối rắm các loại hình, các dạng học, các kiểu học: từ xa,
liên kết, liên thông, văn bằng 2…
Về mặt số lượng, 412 trường với hơn 90 triệu dân thì không phải là
nhiều, nếu so với Mỹ, Trung quốc, Singapore,… Nhưng phải gọi đúng là “lạm
phát” ĐH, vì đó là một sự bùng nổ bất thường về số lượng
trường, nếu ta đối chiếu với nhu cầu, với điều kiện, với khả năng kiểm soát,
quản lý, và nhìn lại sự “mất giá” nặng nề đã xảy ra cho ĐH Việt Nam.
Con số 412 trường, với hàng mấy trăm chuyên ngành đào tạo, không
phản ánh đúng nhu cầu thật về nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam. Đúng
vậy, đã nhiều năm nay rồi, rất nhiều trường ĐH, CĐ có tuyển được đủ chỉ tiêu
đâu, thậm chí không tuyển được đầu vào, rất nhiều chuyên ngành coi như đóng cửa
vì không có người học, trong đó đặc biệt khó khăn là các trường ngoài công lập,
sau đó là khối các trường của tỉnh.
– Đã nhiều năm nay rồi, có rất nhiều sinh viên (SV) ra trường mà không
xin được việc làm, chẳng hạn năm 2014 vừa rồi con số đó đã đến 26,5%. Rất nhiều
SV ra trường không kiếm được việc làm đành phải đầu quân vào đội ngũ “cửu vạn”,
mà thực chất là thất nghiệp! Và cũng là số liệu năm 2014: cả nước có đến 72 ngàn cử nhân và cả Thạc sỹ đang thất
nghiệp!
Như vậy đúng là việc mở ra nhiều trường ĐH, CĐ với vô cùng nhiều
chuyên ngành không phải xuất phát từ nhu cầu đích
thực về nguồn nhân lực. Chúng ta còn nhớ vào thời điểm giữa thập
niên 2000, việc mở thêm các trường tăng nhanh đến chóng mặt, chẳng hạn 2 năm 2006-2007 tăng thêm đến 97 trường (trong
đó có 70 ĐH)! Trong khi nhu cầu các
loại nhân lực khác vẫn rất thiếu (ví dụ công nhân kỹ thuật), nhưng nhà nước (cả
TW và tỉnh) cứ nỗ lực hết sức để mở ĐH, và con em nhân dân thì cứ đổ xô thi vào
ĐH!
Trong khi đó thì các điều kiện cơ bản, rất cơ bản, để mở
trường và bảo đảm trường hoạt động có chất lượng và hiệu quả, thì vô cùng bất cập.
Trước hết phải nói đến đội ngũ giảng viên (GV), vừa thiếu lại vừa yếu thật
sự. Trong một báo cáo của Bộ GD&ĐT đã nêu rõ về số lượng GV mới đáp ứng
được 60% nhu cầu, tỷ lệ SV/GV còn cao so với chuẩn thế giới (VN 28, TG 15 – 20,
Mỹ dưới 10). Nhưng có lẽ gay gắt nhất là chất lượng quá yếu về trình độ
chuyên môn, khoa học, chưa vượt qua được cái ngưỡng nợ “cơm chấm cơm” – Cử nhân
dạy ĐH! Nhiều trường ĐH (cả mới mở và trường cũ) vẫn không có GV
trình độ Tiến sỹ (TS) mà chỉ lèo tèo vài ba Thạc sỹ (ThS) mới, thậm chí toàn cử
nhân! Tỷ lệ bình quân TS/GV của ĐH Việt Nam còn quá thấp (10,4%, ở phương Tây
là 70%).
Chả hiểu mấy năm gần đây, tình hình có chuyển biến gì đáng kể không,
nhất là sau kế hoạch đào tạo 20.000 TS và tăng tốc đào tạo ThS? Phải kể thêm,
số các PGS, GS đang công tác ở bậc ĐH còn ít so với số lượng được phong hàm
(chỉ có 4155/ 11.097 = 37,4%), lại còn bị “pha loãng” do khá nhiều vị chỉ
làm quản lý và các công việc khác không phải là giảng dạy và nghiên cứu khoa
học…!
Số liệu năm 2014 còn cho biết thêm là ở các trường ĐH, CĐ, tỷ lệ GS, PGS/
GV chỉ chiếm 5,6% ( 4.155/ 74.630), như “muối bỏ biển” mà thôi!
Thậm chí, có trường ngoài công lập sau khi được phép mở và thông
báo tuyển sinh thì mới tá hỏa ra là chưa có một GV cơ hữu nào, mà toàn đi thuê,
đi mượn! Đội ngũ GV chỉ có như vậy thì “dạy còn chưa nổi, chưa xong”, chứ nói
chi đến nghiên cứu khoa học – một chức năng đặc trưng và không thể thiếu của
bậc ĐH!
– Điều kiện tiếp theo và cũng rất quan trọng để phát triển ĐH là cơ sở vật chất. Hiện nay có đến hàng trăm
trường được đánh giá là thiếu và yếu về cơ sở vật chất, thiết bị dạy và học, từ
phòng ốc, lớp học đến thư viện, phòng thí nghiệm, phòng thực hành,… và ngay cả
đất để xây trường. Chẳng hạn, nhiều trường không có thư viện, dù là thư viện
truyền thống, 119 trường không có thư viện điện tử, chỉ có 39% số thư viện hiện
có đáp ứng đúng tiêu chuẩn, và tính bình quân thì phải đến 20 SV mới có 1 chỗ
ngồi ở thư viện. Hay là về phòng thí nghiệm, phòng thực hành thì mới đáp ứng
được 40% nhu cầu, trong đó dưới 25% là có thiết bị tốt, và chỉ 15% tạm phục vụ
được yêu cầu nghiên cứu khoa học của thầy và trò.
Quỹ đất của các trường hiện đang thiếu rất nhiều so với yêu cầu
xây dựng nhà. Tại thời điểm này vẫn còn nhiều trường (ngoài công lập) chưa có
đất để xây trường, phải đi thuê để có chỗ đặt lớp, văn phòng, chứ chưa nói đến
phòng thí nghiệm, thư viện, sân tập… Các trường khác vẫn còn thiếu diện tích để
xây dựng tiếp, bổ sung. Ví dụ, nếu tính bình quân số m2 đất/SV, thì
ở ĐH Luật Hà Nội mới có 0,7 m2, ĐH Xây dựng HN mới có 0,84 m2,
ĐH Kinh tế Tp HCM mới có 0,54 m2,… Và để đạt được bình quân chung 55
m2/SV (tiêu chuẩn qui định) thì cả nước còn thiếu đến 12.000 ha cho
quỹ đất của các trường ĐH, CĐ.
Với những điều kiện bất cập như vậy thì chất lượng (đào tạo và
nghiên cứu khoa học) của các trường ĐH Việt Nam đã đạt được đến mức nào?
Trước hết phải đối chiếu với đòi hỏi của thị trường nhân lực trong
nước. Không thể nói khác được, không thể tự sướng, không thể tự đánh bóng tô
hồng sai sự thật, vì thực tiễn luôn phơi bày công khai, ai mà chẳng thấy. Nhìn
vào chất lượng SV tốt nghiệp đi tìm việc làm, nếu có đôi chút châm chước thì ta
nói: chỉ ở mức Trung Bình, còn nếu nghiêm túc hơn thì phải nói: Thấp,
Dưới Trung Bình! Bởi cứ như các thông tin từ các nhà tuyển dụng thì
có đến 50% SV tốt nghiệp phải đào tạo lại.
Các em còn có rất nhiều lỗ hổng,
nhược điểm rất cơ bản, như: nặng về nắm lý thuyết, yếu về kỹ năng thực hành,
thiếu tính sáng tạo, yếu về khả năng giao tiếp, yếu khả năng làm việc độc lập
hoặc theo nhóm, yếu về ngoại ngữ, và còn yếu cả tin học! Con số SV tốt nghiệp
không tìm được việc làm tương đối cao cũng phải nhìn từ lý do này nữa. Đó là
chưa kể đến chất lượng nghiên cứu khoa học cùng các sản phẩm sản sinh ra từ đây
trên thị trường khoa học và công nghệ trong và ngoài nước, thì quả là thấp kém,
không đáng nói ra!
Còn nếu so với thế giới thì hơi khó nói đẹp được. Không nước nào
công khai tuyên bố, nhưng hình như rất ít nước công nhận trình độ đào tạo ĐH của
ta là đúng chuẩn, và càng không đánh giá cao trình độ ĐH của ta. Cứ theo
như công bố xếp hạng ĐH từ một tổ chức Văn hóa – Khoa học nước ngoài thì:
Việt Nam chỉ có duy nhất ĐHQG Hà Nội đã từng được lọt vào tốp 1000 trường ĐH
tốt nhất thế giới. Và gần đây, một công bố khác trong xếp hạng ĐH của khu vực
Đông Nam Á thì Việt Nam cũng mới chỉ có 7 ĐH được lọt vào tốp 100 trường ĐH tốt
nhất khu vực (ĐHQG Hà Nội, ĐHBK Hà Nội, ĐHBK Tp HCM, ĐH Cần Thơ, ĐH Nông Lâm Tp
HCM, ĐH Kinh tế Tp HCM, và ĐH Lạc Hồng)! Và nhìn tổng thể thì vẫn là một
bức tranh buồn!
– Tôi xin nêu một ý kiến hơi trái chiều với những đánh giá trên.
Đã có chuyên gia GD ĐH nói rằng: ĐH của chúng ta đâu chỉ là để đáp ứng yêu cầu
nhân lực chất lượng cao, mà còn có mục tiêu Dân trí nữa chứ, các trường ĐH phải
phân ra nhiều tầng, nhiều loại.
Do đó số lượng ĐH (& CĐ) như vậy đâu phải
là nhiều. Hàng năm mới chỉ có khoảng 40% học sinh tốt nghiệp PTTH được vào học
ĐH, vẫn còn hàng mấy trăm ngàn các em lông bông, chờ năm sau lại thi. Thế giới
đã có nhiều nước chuyển sang ĐH đại chúng, chứ không bó hẹp ở mức ĐH tinh hoa
như ban đầu nữa. Các loại hình ĐH cộng đồng ở nhiều nước, mà tôi đã được
dịp tham quan, chính nhằm đáp ứng mục tiêu Dân trí của nền GD ĐH đại chúng đấy.
Vậy là ta chưa đủ cơ sở để nói Việt Nam đang “lạm phát” ĐH!
– Ý kiến trên rất đáng để chúng ta nghiên cứu, nhưng có lẽ đó là
vấn đề khác rồi: Xác định lại mục tiêu của GDĐH Việt Nam. Vấn đề này sẽ được bàn
thảo vào một dịp khác, về chủ đề Triết lý GD Việt Nam, Cách mạng (đổi mới, cải
cách) GD Việt Nam. Còn bây giờ chúng ta cứ tranh luận tiếp theo hướng cũ, vẫn
coi mục tiêu của GD ĐH Việt Nam là nguồn nhân lực chất lượng cao, đúng như Nhà
nước đã xác định trên “giấy trắng mực đen” rồi.
Mà cho dù là có thêm mục tiêu Dân trí đi nữa, thì vẫn không có thứ
ĐH nào lại úi xùi, lèm nhèm, nhếch nhác, “không ra trường, không ra lớp, không
ra thầy, không ra trò” như nhiều trường ĐH ở ta hiện nay. Cho nên vẫn cứ là
“lạm phát” ĐH!
Vậy thì Việt Nam “lạm phát” ĐH để làm gì? Ai chủ trương? Ngay cả người
dân thường cũng đã nhận ra điều này, và đã kêu cứu nhiều lần rồi, mà sao người
ta không chịu thay đổi?
Nói vui thì “Bắc thang lên hỏi ông Trời”! Nhưng hãy cứ tạm gác lại
băn khoăn này đã, lát nữa chúng ta sẽ quay lại vấn đề này.
Lạm
phát tướng lĩnh
– Một cái sự “Lạm phát” tiếp nữa, cũng rất nóng trên dư luận, đó
là “Lạm
phát” tướng lĩnh. Đây cũng là vấn đề nhạy cảm, đụng chạm đến
nhiều quan chức chóp bu, đụng chạm đến cả thể chế chính trị hiện hành nữa. Chả
thế mà đã có sự đe nẹt, thậm chí là ngăn chặn, trừng phạt đối với những tờ báo
“lề phải” dám nói sự thật (báo Người cao tuổi là một bị can điển hình).
– Chúng ta đang thực thi quyền tự do ngôn luận theo Hiến pháp một cách
đàng hoàng. Bằng tư duy khoa học, chúng ta đang tìm cách lý giải các vấn đề của
thực tiễn, mà các căn cứ, các chứng cứ đều đã hiện diện đầy đủ và rất phong phú
trên internet cả. Chúng ta đâu có xuyên tạc, bịa đặt mà không dám lên tiếng?
Chúng ta không nói thì dân cũng đã biết hết các thông tin, chỉ có sự đánh giá
là còn khác nhau nên cần trao đổi.
– Tôi xin cung cấp vài số liệu mà tôi có được nhờ xem mạng
internet và cũng moi thêm được ở thằng cháu đang ở cấp hàm “chuẩn tướng” (đại
tá chờ lên thiếu tướng) để các bạn có căn cứ mà bàn thảo. Số tướng đang tại ngũ hiện nay của quân đội VN
là 435: 1 đại tướng, 7 thượng tướng, 62 trung tướng và 365 thiếu tướng. (Số tướng đã mất và nghỉ hưu là 985: 11 đại
tướng, 34 thượng tướng, 249 trung tướng và 691 thiếu tướng). Nên nhớ là năm
1975 chúng ta mới có hơn 30 tướng của quân đội. Còn số tướng của Công an thì
tôi biết không được chi tiết: đang tại chức có 100 tướng: 1 đại tướng, 5 thượng
tướng, 15 trung tướng, và 79 thiếu tướng, và đang có xu hướng tăng nhanh,
đòi tăng nhiều hơn.
– Ta cứ hãy phân tích kỹ vấn đề đối với tướng quân đội, vì hai bên
Công an và Quân đội đều bị chi phối bởi những luật và lệ gần như nhau cả thôi
mà. Trước hết, tôi thấy sự tăng số tướng QĐ Việt Nam là không bình thường: nhanh
quá và nhiều quá, so với số quân, so với số dân, so với nhiệm vụ quốc phòng, và
so tương quan với các nước khác,…
Qua 2 cuộc kháng chiến 30 năm, đến
năm 1975 mà ta mới chỉ có 30 tướng các cấp hàm. Thế mà sau 40 năm hòa bình (1975 –
2015), số tướng tại ngũ đã là 435 (gấp hơn 14 lần). Với số tướng này chỉ đảm
nhiệm chỉ huy quân số thường trực khoảng 455 ngàn người, bình quân 1046 quân/1
tướng, chưa kể dưới trướng mỗi vị tướng này còn cơ man nào là tá, là úy?! Ta thử so với Trung quốc: Với 1,3 tỷ dân, quân
đội Trung quốc có 2,3 triệu quân thường trực, mà họ chỉ có 191 tướng.
Chỉ cần so như vậy thôi cũng đủ thấy Việt Nam
“lạm phát” quá đáng các tướng lĩnh! Một sự lãng phí, một sự phô trương, không
có ý nghĩa thực tiễn đối với sự trưởng thành của quân đội, đối với nhiệm vụ
quốc phòng hiện nay !
Nhiệm vụ quốc phòng hiện nay đâu có cần đến số tướng lĩnh nhiều
như vậy, phong nhiều tướng chả để làm gì? Ngoài tướng cầm quân, lại còn các loại
tướng khác nữa chứ: tướng văn phòng, tướng y nghiệp, tướng làm báo, tướng làm
văn nghệ, tướng làm kinh tế… và cũng không phải chỉ vài ba vị đâu! Không biết
quân đội các nước khác có vậy không?
Lương và các chế độ ưu đãi của tướng cao ngất đến đâu, lấy từ
nguồn nào, liệu tiền đóng thuế của dân có chịu nổi không, hay lại phải đi vay để
nuôi tướng và nuôi quân?
– Quân đội có làm kinh tế mà, nghe nói làm ăn được lắm, chắc là
cũng gánh đỡ cho ngân sách quốc gia được khá nhiều đấy. Nhưng chuyện này ai mà
biết rõ được, vì là vùng cấm mà, nên ta đừng bàn. Hãy trở lại mạch ý đang bàn
dở của chúng ta!
Như vậy là không phải do yêu cầu chỉ huy quân trong các nhiệm vụ
quốc phòng mà phải cần tăng nhanh và nhiều tướng đến thế đâu!
Chính vì tăng nhanh và nhiều nên chất lượng tướng Việt Nam hiện
nay là thấp, rất thấp, tức là “mất
giá” so với trước, và cách xa đòi hỏi của hiện tại. Có người dân đã
nhận xét tướng ngày nay không đạt đúng tiêu chuẩn đức và tài, không có công
trạng xứng với cấp hàm! Dân chỉ cần nhìn vào lời họ nói, bài vở họ viết, và
nhất là việc họ làm là có thể thấy được cái Tâm và cái Tầm của họ thôi mà. Hình
như mạng xã hội đã từng sờ đến gáy của nhiều vị tướng, kể cả các đại tướng
Thanh, Quang. Thực tế là ngày nay dân không kính trọng và tin yêu tướng như
ngày trước, mà rất coi thường vì nhiều quá và tầm thường quá!
– Nhiều chuyện liên quan đến tướng lĩnh Việt Nam (nhiều lắm đấy),
cả tướng Quân đội, cả tướng Công an, ta sẽ bàn sau, nhưng đến đây thì đã có thể
kết luận: Việt Nam “lạm phát” tướng lĩnh!
– Khoan đã nào, chúng ta phải đặt ra câu hỏi để lát nữa mới bàn
được chứ: Ai chủ trương “lạm phát” tướng? Và ẩn sau chủ trương đó là cái gì, nếu
không phải là một thủ đoạn
chính trị? Không có chủ trương thì làm sao tạo ra được “thị trường
Sao và Vạch” , tạo ra cơ hội kiếm chác cho loại “Cò cao cấp”, như báo Người cao
tuổi đã dám xăm soi, và liền bị bịt mồm, bị hạ đổ !
Thôi được, chúng ta ghi nhận đề xuất này, rất trúng đấy. Nhưng bây
giờ ta hãy chuyển sang cái “trò ảo thuật” thứ ba: “lạm phát” học vị, học hàm.
Lạm
phát học vị, học hàm
– Có lẽ chỉ cần nhìn đến bộ phận đỉnh cao (TS, PGS, GS) là cũng đủ
thấy rõ! Và đương nhiên chuyện “lạm phát” này có liên quan đến chuyện “lạm
phát” ĐH đã bàn ở trên.
Sau đợt phong học hàm GS, PGS năm 2014, tôi có đọc được ý kiến của
GS Trần Văn Nhung, Tổng thư ký Hội đồng chức danh GS nhà nước, nói đại ý rằng:
Làm gì có chuyện “lạm phát” GS, PGS, như ai đó đã góp ý. Thấy ý kiến hơi lạ,
tôi liền vào mạng để tìm hiểu thêm, đồng thời cũng tranh thủ gặp một số nhân
vật “trong cuộc” để kiểm chứng.
Đúng tắp phải không nào, té ra chính ông Nhung “Lạy ông tôi ở bụi này”
và phải mang tội “Chỉ đường cho hươu chạy”, “Vạch áo cho người xem lưng”! Vì
ông ấy nói ra nên mới có thêm nhiều người tò mò, muốn biết sự thật. Không phải
chỉ mình anh sục tìm thông tin đâu nhé, hầu như tất cả “dân có chữ” như chúng
ta, đều có phản ứng tương tự. Vừa buồn, vừa tức, vừa xấu hổ cho cái xã hội
đương đại này ở Việt Nam!
Như trên mạng internet đã đăng tải thì tính đến cuối năm 2014 cả
nước đã có 11.097 nhà giáo được phong hàm GS, PGS, trong đó có 1.628 GS và 9.469
PGS. Trong tổng số này chỉ có 4.155 vị giảng dạy ở ĐH, CĐ, tức là chỉ có 37,4%,
số còn lại đông hơn thì làm quan chức, làm quản lý ở các ngành, các cấp không
liên quan đến giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Con số 4.155 GS, PGS giảng dạy so với tổng số GV bậc ĐH quả là
quá ít (4.155/ 74.630 = 5,56%), do đó tác động thúc đẩy chất lượng ĐH (giảng dạy
và nghiên cứu khoa học) là rất hạn chế!
Nếu so với số dân thì ở Việt Nam cứ gần 1 vạn dân (0,8 vạn) mới có
1GS, PGS. Nếu so với số sinh viên (gần 2 triệu) thì ở VN phải khoảng 480 SV mói
có 1 GS, PGS giảng dạy (là tính bình quân, chứ SV làm gì được học PGS, GS!). So
với thế giới thì ta đang thua xa, ví dụ ở Đức thì hai con số trên là 3 GS/1 vạn
dân, và 59 SV/1 GS (ở Đức và nhiều nước không có PGS).
Như vậy là ở Việt Nam đang rất thiếu GS (và PGS), đang rất cần có thêm
nhiều nhà giáo có trình độ đó, để chủ yếu là cung cấp cho các trường ĐH, CĐ,
chứ không phải để làm quan! Do đó con số TS, PGS, GS như hiện nay đã có là
nhiều (hình như số này của Việt Nam nhiều nhất Đông Nam Á thì phải?), và phải
gọi là “lạm phát” vì không xuất phát từ nhu cầu đích thực của nền GD ĐH.
– Dư luận nói Việt Nam “lạm phát” TS, PGS, GS chủ yếu là vì nó không phục vụ cho nhu cầu phát triển
và nâng cao chất lượng bậc ĐH (như ý kiến trên),
và chất lượng thấp, không đúng chuẩn.
Này nhé, với học vị TS, dù ta đang rất thiếu so với nhu cầu ở bậc
ĐH (mới chiếm 10,4% số GV), nhưng lại cho đào tạo ồ ạt, nhất là số đông lại đào
tạo trong nước bằng hình thức tập trung trá hình, tức cũng là tại chức. Hơn nữa
lại phải dựa trên cái nền ĐH yếu kém như trên đã nói rồi đấy, cái nền ĐH này đã
đẻ ra vô tội vạ các ông bà cử nhân và tiếp lên là các vị ThS rất không đáng tin
cậy về trình độ! Do đó chất lượng TS trong nước thực chất là thấp, lem nhem,
thua PTS ngày trước là cái chắc. Trong số TS mới thì có lẽ đáng điểm mặt về
trình độ là với diện học ở nước ngoài về mà thôi (nhưng họ lại ít trở về)!
Với các học hàm PGS, GS được phong mấy đợt gần đây đều có vấn đề
về chất lượng, về trình độ chuẩn, rất không đáng tin cậy, và càng không dám
lên mặt tự hào về sự giỏi giang của người Việt! Có người đã dám nhận xét là bát
nháo, phong lấy được, chạy theo số lượng. Họ còn dám khẳng định là ở đây cũng
đã “ngửi thấy mùi thị trường”, giống như thị trường “sao và vạch” bên tướng
lĩnh! Nếu đọc lại các tiêu chí về chuyên môn, và xem xét lại cách thức tuyển, chọn, xét ở các
cấp Hội đồng trong thực tiễn triển khai, thì không thể tin là chuẩn xác được!
Chỉ
xin hỏi các vị: lấy đâu ra số giờ dạy, số luận văn Ths, số luận án TS, số bài
báo khoa học đăng tải ở tạp chí chuyên ngành có uy tín của nước ngoài… mà các
vị đích thực làm được, không ngụy tạo, không nhờ vả, không chạy chọt, nếu các
vị đang làm quan chức quản lý các ngành, khi công việc sự vụ hàng ngày của các
vị đã luôn đầy ắp rồi, đến mức “nghẹt thở”, không còn thì giờ chăm sóc gia
đình, như chính vợ con các vị thường phàn nàn với hàng xóm, bạn bè?
Còn các vị
đang giảng dạy trên lớp của ĐH thì có hơi khác, cơ hội để làm thật (dạy thật,
hướng dẫn thật, nghiên cứu thật, viết báo thật) luôn có ngay bên cạnh, nhưng
vấn đề ở đây lại là chất lượng có thật không, đánh giá có nghiêm túc và chặt
chẽ không, có châm chước không, và nhìn tổng thể lại thì có đáng tầm GS (PGS)
hay không?
Dù ở Việt Nam hay ở nước ngoài thì đã là hàm GS (PGS) thì phải là
dạng trí tuệ thông thái.
Ngu ngơ, ngô nghê, chỉ biết chung chung và nông choẹt thì sao gọi là thông
thái? Và đã là hàm GS (PGS) thì ngoài độ uyên thâm, sâu sắc về chuyên ngành hẹp
của mình, nhất định phải có một cái nền (“phông”) chung tối thiểu về tri thức
khoa học phổ thông, về phương pháp tiếp cận khoa học, về tri thức xã hội. Không
thể có loại GS (PGS) chỉ “giỏi” về chuyên môn hẹp mà lại dốt về những tri thức
chung, bởi suy cho cùng thì chính những tri thức chung mới tạo ra cái nền tảng
ban đầu vững chắc cho tri thức chuyên ngành.
Lô gích của vấn đề đã rất rõ ràng: chất lượng cử nhân quá non yếu
thì làm sao đào tạo được ThS ra hồn, không có ThS chuẩn thì làm sao có được TS
giỏi, không có TS giỏi thì không thể có các GS (PGS) thực chất. Chỉ có dùng
phép “biến hóa thần thông” của ma quỷ thì mới có thể biến các TS dởm, giả, “ốm
yếu”, thành các nhà “thông thái” mang danh GS (PGS) được mà thôi!
Nếu các GS (PGS) của ta là giỏi thật thì sao sự tác động từ trí
tuệ uyên bác của họ đối với nền khoa học nói riêng và đối với sự phát triển KT-XH
của đất nước nói chung lại yếu đến thế, mờ nhạt đến thế?! Đóng góp của họ đối
với khoa học thế giới thì càng rõ là không đáng kể! Chúng ta cứ vào mạng mà
xem, các thống kê về các bài báo khoa học có giá trị, các công trình khoa học
được xếp hạng, thì mới thấy xấu hổ cho Việt Nam, vì đóng góp quá khiêm nhường!
Người ta đã tính ra cứ 11 TS Việt Nam mới có 1 bài báo khoa học, trong khi ở
các nước khác thì chỉ 1 TS đã có từ chục bài trở lên!
– Tôi đã đọc lướt danh sách các vị GS và PGS được phong mấy đợt
gần đây. Đa số các vị tôi không quen biết, nhưng có đến vài ba chục vị thì tôi
biết, thậm chí biết rất rõ quá trình học tập từ khi họ còn học ở bậc phổ thông.
Tôi đã từng nói chuyện đời thường với nhiều vị, và cũng từng đàm đạo về học
thuật nữa, cả lúc họ mới có học vị TS và cả khi họ đã có hàm GS, PGS. Tôi
thật sự ngỡ ngàng, vì thấy có quá nhiều sự tầm thường về trí tuệ ở những người
được mang danh là hiền tài, là nguyên khí quốc gia, được coi là thông thái nhất
thiên hạ. Sự hiểu biết của họ, ngay trong chính chuyên ngành của mình, vừa
nông, vừa thiếu cập nhật, vừa không chuẩn xác.
Chả hiểu trong các công trình
khoa học của họ thì độ uyên bác đến đâu? Tôi càng thấy lạ vì trong đó có không
ít trường hợp như là có dấu hiệu đặc biệt của một sự vượt trội đột biến về mức
độ thông tuệ (như kiểu “thần đồng”). Tôi biết rất rõ khi các vị ấy học phổ thông,
học ĐH, rồi học nghiên cứu sinh đều chỉ ở mức rất tầm thường, “cho đỗ thì được
đỗ, đánh trượt cũng không oan”!
Với trí tuệ ấy, mà sao quay đi ngoảnh lại chỉ
hơn chục năm mà các vị ấy đã có hàm PGS, rồi GS?! Trên đời này, chỉ có rất ít
những trí tuệ trác việt mới làm nên được sự đột biến như vậy, người bình thường
thì không thể! Soi đuốc mà tìm trên khắp thế giới chắc cũng chỉ thấy được vài
người! Vậy thì nước ta phải thông báo ngay cho Liên Hiệp Quốc biết để vinh danh
và phát huy!
– Lại còn chuyện này nữa các bạn ạ, tôi đọc trên mạng mới biết
trên thế giới không có cái gọi là “khoa học an ninh” tách bạch riêng thành một
chuyên ngành hẳn hoi (như Toán học, Sinh học, Tin học,…). Ở các nước chỉ có
chuyện vận dụng các khoa học chuyên ngành vào hoạt động an ninh (như an ninh
mạng, an ninh hàng không, an ninh lương thực…), giống như các lĩnh vực khác
thôi. Thế mà ở Việt Nam ta có đến mấy chục vị PGS, GS đi theo chuyên ngành
“Khoa học an ninh”.
Phải chăng là một sự bày đặt cho nó có vẻ oai, hoành tráng?
Và cũng liên quan đến các GS, PGS đi theo “khoa học an ninh”, tôi thấy bên cạnh
hầu hết các vị đều là nhà giáo dạy ở các trường của ngành Công an, thì trong đó
lại có vài vị là Giám đốc Công an tỉnh, tức không phải nhà giáo, và quá bận với
hàng núi công việc sự vụ hàng ngày rồi thì đâu còn cơ hội, còn thời gian để làm
khoa học?! Đúng là chuyện hài hước của giới khoa học Việt Nam.
– Phải nói ngay đến cái vòng luẩn quẩn của Giáo dục và Khoa học
Việt Nam: Cử nhân dốt – ThS tồi – TS dởm – GS, PGS non yếu – TS tồi – ThS dởm –
Cử nhân dốt! Chả hiểu các nhà quản lý vĩ mô ngồi ở bàn giấy trên cao có nhìn rõ
cái “Đèn cù” này không nhỉ, hay chỉ nghĩ đến các bài ca “tự sướng” để rung đùi
vênh vang với thiên hạ, để khoe khoang những cái không thực chất, không thực
có, nhằm tự “đánh bóng” thể chế và ru ngủ cộng đồng dân cư?!
– Ông Nhung cố chứng minh là Việt Nam không “lạm phát” GS, PGS với
cái lý là số lượng đâu có nhiều so với thế giới và so với nhu cầu. Nhưng vấn đề
ở đây lại là chất lượng thấp và “sai địa chỉ”, nên vẫn đúng là đích danh
“lạm phát” rồi, không cãi được đâu!
Lạm
phát danh hiệu
– Ngay cả đến chuyện rất quan trọng mà lâu nay mọi người vẫn coi
là chuyện nghiêm túc nhất, thậm chí là thiêng liêng, đó là việc phong tặng các
danh hiệu Nhà nước, trong đó đỉnh cao nhất là Anh hùng, mà
người ta cũng đã dám toan tính “lạm phát”, và họ đã làm được! Sao
Anh hùng nhiều thế mà khí thế của đất nước lại chả anh hùng chút nào, lại đang
trở nên hèn yếu, khiếp nhược hơn mọi thời kỳ lịch sử đã qua? Sao lại có Anh
hùng gian dối, man trá?
Sao Thầy thuốc ưu tú (TTƯT), Thầy thuốc nhân dân (TTND)
nhiều thế mà ngành Y tế lại bí bét, tha hóa đến mức tệ hại? Sao Nhà giáo ưu tú
(NGƯT), Nhà giáo nhân dân (NGND) nhiều thế mà ngành Giáo dục mãi vẫn lạc hậu,
chất lượng giáo dục càng ngày càng giảm sút, khó mà vượt lên? Sao có quá nhiều
đơn vị và cá nhân được đón nhận các loại Huân chương cao nhất, nhì mà chả thấy
đất nước khởi sắc lên thêm chút nào?…
Và nhìn vào diện mạo thật của các Anh hùng, các TTƯT, TTND, NGƯT, NGND…
mới phong vài ba chục năm gần đây, thì làm sao mà tin được ở bản lĩnh của các
vị trước các thách thức của tình thế đất nước? Đáng nhẽ ở đó phải là những nhân
cách lớn để cộng đồng ngưỡng vọng, để lớp trẻ tìm thấy lý tưởng, tìm thấy niềm
tin và hy vọng. Thì ở đây mọi người lại chỉ có những cảm xúc bình thường, tầm
thường, không để lại bất cứ một dấu ấn nào! Chính vì “lạm phát” nên các Danh
hiệu cao quý ấy đang trở thành Danh hão, không thực chất và không có tác dụng
tích cực, như mong muốn của người dân! Tất nhiên trong đó vẫn có những tấm
gương đáng trân trọng, đáng học, nhưng thiểu số thì làm được gì?
– Ai mà chả biết Danh hiệu là do con người đặt ra, tiêu chuẩn để
công nhận Danh hiệu cũng do con người đặt ra và do con người vận dụng. Mà con
người ở đây chắc không phải là Dân rồi. Thế thì người ta muốn vận dụng thế nào
mà chả được. Tôi phải nói thẳng thắn điều này, vì đó là sự thật của mọi sự bình
chọn hiện nay ở nước ta. Sau đợt phong tặng NGND, NGƯT của ngành GD&ĐT năm
2014, tôi có đọc được một bài viết trên mạng xã hội dưới tiêu đề “Thế nào là
tài năng sư phạm?”.
Trong bài báo ấy, có một ý liên quan đến vấn đề chúng
ta đang bàn về “lạm phát” danh hiệu cao quý, đại ý: Có nhiều trường hợp không
xứng đáng, và có tình trạng lệch đối tượng (cán bộ quản lý quá nhiều) là do
không coi “Tài năng sư phạm” là tiêu chí cốt lõi nhất, hoặc là cố tình hiểu sai
nội hàm của tiêu chí cốt lõi này! Như vậy có nghĩa là sự vận dụng tùy tiện, người
ta có thể bẻ vênh cả tiêu chuẩn, cốt sao đạt được cái dụng ý đã định sẵn rồi!
Lạm
phát lễ hội
– Quá nhiều chuyện “lạm phát”, chúng ta không sao phân tích hết
được đâu, xin tạm dừng ở đây, được không các bạn?
– Xin cho tôi được nói thêm vài ý đã! Rất dễ nhận diện ra các hiện
tượng “lạm phát” bằng những dấu hiệu đã nêu ở trên. Nhưng cần nhấn mạnh lại dấu
hiệu cốt lõi nhất là: không
vì nhu cầu đích thực của thực tiễn nên phải hy sinh đòi hỏi về
chất lượng của đối tượng tăng phát. Và cũng cần chỉ ra một cách
thẳng thắn mục đích thật
sự của việc “lạm phát” đó, về bản chất là một thủ đoạn chính trị.
Tôi chỉ xin phép liên hệ rất nhanh việc “lạm phát” phục hồi các lễ hội, và “lạm
phát” các cuộc thi, các giao lưu nghệ thuật hoành tráng.
Hồi xưa, ngay sau Cách mạng Tháng 8 và trong Cải cách ruộng đất
thì người ta cho xóa sạch, phá sạch, với cái lý luận cực đoan vô thần. Còn bây
giờ thì người ta lại cho phục hồi vô tội vạ, vô điều kiện (dễ đến 200% –
300%!), đến mức cả nước có đến 8.000 lễ hội đủ các kiểu, bất biết giá trị văn
hóa là cái gì và có hay không, với cái lý là tôn trọng văn hóa tâm linh, là
phục hồi văn hóa truyền thống!
Thực chất đó là những việc làm rất thiếu trí
tuệ, rất thiển cận và thực dụng, chỉ cốt làm cho dân “ngoan” hơn và ngu hơn,
rất nguy hại!
Và cũng chưa thời nào lại có lắm cuộc thi, lại thường xuyên có quá
nhiều buổi giao lưu nghệ thuật hoành tráng, như ba chục năm đổi mới vừa qua.
Rất tốn kém, rất lãng phí tiền bạc, sức lực, thời giờ,… của rất nhiều người, mà
tác dụng giáo dục thì lệch lạc, toàn chạy theo xu hướng thẩm mỹ và nghệ thuật
lai căng, kệch cỡm! Thực chất đó là thủ
đoạn ru ngủ nhân dân, đặc biệt là với lớp trẻ, hòng mong cho số đông người quên
đi cái thực trạng u ám, đau buồn, để họ không còn thì giờ mà nghĩ đến những tổn
thất, những sai lầm, suy thoái,… đang hiện hữu!
– Thế là được rồi nhé, xin tạm sơ kết phần bàn thảo đã hơi dài,
gần cả buổi sáng nay. Lạm phát trong kinh tế đã từng làm cho nhiều quốc gia chao
đảo, rối ren, chí ít thì cũng làm người dân phải khổ sở, điêu đứng, nhất là với
người dân lao động nghèo. Việt Nam chúng ta không phải là ngoại lệ. Nhưng ở đó
chủ yếu chỉ là nỗi khổ về vật chất, và khi kinh tế được phục hồi thì sự ổn định
sẽ trở lại. Còn “lạm phát” mở rộng ra đa lĩnh vực như Việt Nam ta thời nay thì
tai họa đó còn khủng khiếp gấp nhiều lần, không chỉ là vật chất, mà là một sự
mất mát vô hạn, và không thể phục hồi. Những thứ bị mất đó lại vô giá, vì đó là
những giá trị tinh thần, văn hóa cốt lõi nhất, bản sắc nhất của dân tộc.
Những
“vết sẹo tinh thần” đó không thể trở về lành lặn! Đau đớn lắm, nhức nhối lắm, bởi
vì từ đó mà chúng ta sẽ mất đi vài ba thế hệ, đất nước sẽ tiếp tục tụt hậu lại
nhiều thập kỷ, và kéo dài “tuổi thọ” của một đất nước anh hùng mà nghèo đói và
lạc hậu! Lạm phát hay “Lạm phát” là các hiện tượng xã hội, do con người chủ
trương, con người thực hiện, do đó bao giờ cũng có mục đích, hoặc công khai
hoặc ngấm ngầm. Và tất cả các mục đích ấy đều xấu xa, gây tổn hại cho cộng
đồng, cho đất nước! Việt Nam đón năm Con Dê trong nỗi niềm như vậy đó, chứ đâu
có phải là năm phát vượng của Tài – Lộc – Phúc – Thọ như người ta chúc nhau!
– Tất nhiên là còn nhiều ý chúng ta chưa bàn đến hoặc chưa bàn rõ
đấy chủ tọa ạ, chẳng hạn tác hại, cách nào để hạn chế và chấm dứt…?
– Vâng, đúng là vậy. Xin khất lại lần trao đổi tiếp vào tháng 5
nhé.
Chúng ta tạm chia tay ở đây, và hẹn gặp lại tại Sầm Sơn!
Tháng 3 năm 2014
M.T.
Tác giả gửi BVN
__._,_.___