Lệnh cấm đánh bắt cá: Món quà thứ hai cho Phùng đại tướng
Nguyễn Thanh Văn
Cùng tác giả:
Ngày 15.5.2015, sau cái bắt tay hữu nghị giữa hai Bộ trưởng quốc phòng
Việt cộng Phùng Quang Thanh và Trung cộng Thường Vạn Toàn trên cầu Hồ Kiều tại
Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai (tỉnh Lào Cai), biên giới Việt-Trung, ông tướng Ta được
ông tướng Tàu tặng một món quà, là một chiếc bình gốm đặc trưng phong cách Trung
Hoa. Báo chí đăng tin, ông Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã nhận món quà với sự
trọng thị, vui vẻ và cảm ơn chân thành.
Sau hôm nhận món quà nói trên, trong nỗi vui mừng được đón Thượng
tướng Thường Vạn Toàn và Đoàn đại biểu Quân Giải phóng nhân dân Trung cộng sang
dự Giao lưu hữu nghị Quốc phòng biên giới Việt-Trung lần thứ hai còn tràn trề,
ông Phùng Quang Thanh lại được Bắc Kinh tặng thêm một món quà thứ hai, đó là
Lệnh cấm toàn bộ các hoạt động đánh bắt cá trên Biển Đông từ ngày 16/5 đến ngày
1/8 trong phạm vi vùng biển từ 12 độ vĩ Bắc lên đến hết vùng biển tỉnh Quảng
Đông, bao gồm khu vực đánh cá chung thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam trong
vịnh Bắc Bộ theo hiệp định hợp tác nghề cá mà hai bên Việt-Trung đã ký kết năm
2000 và phê chuẩn năm 2004.
Bản tin ngày 17/5 của đài VOA cho biết (*): “Trong cuộc gặp gỡ
báo chí, ông Phùng Quang Thanh nói đây là một cuộc gặp lịch sử và ông bày tỏ lạc
quan rằng qua cuộc giao lưu này, quân đội hai nước đã gửi ’những tín hiệu hết
sức đáng mừng’ tới nhân dân hai nước. Phát biểu ngay trước đó, Bộ trưởng Quốc
phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn nói hai nước đã ‘giải quyết tốt vấn đề trên
biển’, và rằng hai nước có “’đủ trí tuệ và khả năng để thành công trong việc xử
lý các vấn đề hàng hải’”.
Thế nhưng, khi nhìn vào bản đồ vùng cấm đánh bắt cá mà Bắc Kinh ngang
ngược đưa ra, thì vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo luật biển
quốc tế không còn là của Ta nữa mà là của Tàu. Như vậy người ta phải hiểu như
thế nào về lời tuyên bố nêu trên của tướng Thường Vạn Toàn (hai nước đã giải quyết
tốt vấn đề trên biển) và tướng Phùng Quang Thanh xem đó là “tín hiệu hết sức
đáng mừng? “Đã giải quyết tốt” và “đáng mừng” vì Việt Nam đã giao gần hết biển
cho Tàu một cách êm thắm chăng?
Bắc Kinh còn tuyên bố rằng trong thời gian 2 tháng rưỡi áp đặt lệnh
cấm đánh bắt cá, sẽ tăng cường sử dụng các tàu chấp pháp để giám sát, tuần tra,
bắt giữ và xử phạt các hành vi vi phạm. Tuy nhiên tàu thuyền "có giấy
phép" (của Trung Quốc) vẫn được tới đánh bắt ở khu vực này.
Đây không phải lần đầu tiênTrung cộng đưa ra lệnh cấm như vậy, mà
đã bắt đầu từ năm 1999. Và cứ mỗi lần như thế thì nhà nước CSVN lại cho người phát
ngôn của Bộ Ngoại Giao lên tiếng phản đối.
Và cứ sau mỗi lần phản đối mang tính truyền thống như vậy thì nhà
nước lại hô hào ngư dân ta cứ tiếp tục bám biển để rồi tàu cá thì bị tàu hải giám
Trung cộng đâm hỏng, tài sản bị tịch thu, bị đánh đập, thậm chí có người còn
mất cả mạng sống. Những lúc như thế này thì ngư dân rất cần sự bảo vệ nhưng chẳng
thấy bóng dáng của lực lượng Hải quân Việt Nam đâu cả. Chỉ khi chiếc tàu cá
rách bươm với đám ngư dân khốn khổ lết về gần tới bến thì mới gặp tàu Hải quân
Việt Nam. Tất cả họ “bận“ vì đã được lệnh bám bờ để tránh “gây tình hình thêm
phức tạp”.
Trung cộng không chỉ đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm mà
còn bắt ngư dân Việt phải đóng lệ phí mới được phép đánh bắt. Đây là cách Bắc Kinh
xác lập chủ quyền của họ trên vùng biển này, mà ngư dân Việt Nam không còn cách
nào khác là phải đóng lệ phí để kiếm sống, coi như mặc nhiên thừa nhận chủ quyền
vừa kể của Trung Quốc.
Đối với ngư dân ta, dẫu vẫn biết làm như vậy là vô lý, vì đó là ngư
trường truyền thống bao đời của mình, cũng như biết rõ sự ngang ngược của bá quyền
Trung cộng, nhưng vì không có ai bao vệ và vì muốn yên tâm, yên thân bám biển
nên phải mua giấy ‘thông hành hải’ giá 40 triệu đồng cho thời hạn một năm do
Trung cộng phát hành để việc đánh bắt cá mới được Trung cộng xem là hợp lệ.
Cứ mỗi lần Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên
Biển Đông thì nhà nước CSVN lại cho chạy đi chạy lại cuộn băng rè đã xử dụng
qua bao nhiêu nhiệm kỳ người phát ngôn từ Lê Dũng, Nguyễn Phương Nga, Phạm Thu
Hằng, Lương Thanh Nghị và ngày nay là ông Lê Hải Bình.
"Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng
định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa, quyền chủ quyền và quyền tài
phán quốc gia đối với các vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
mình, phù hợp với các quy định trong Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm
1982".
"Việc phía Trung Quốc ra thông báo phạm vi và thời gian nghỉ đánh
bắt cá ở Biển Đông là vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa,
vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển của Việt
Nam theo đúng Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982".
Nhà nước CSVN luôn khẳng định Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử
và luôn hành xử đúng luật quốc tế, còn Trung cộng làm bậy làm càn, sai luật quốc
tế,....Nhưng tuyệt nhiên không dám chính thức kiện Trung cộng ra toà án quốc tế
như Philippine đã làm. Điều này làm nổi lên câu hỏi, khi dựa trên luật quốc tế
để làm cơ sở tranh biện với Trung cộng, nhưng không những không có kết quả nào,
ngược lại cứ bị thua thiệt mãi trên thực địa, thì tại sao lại không đưa ra các
cơ quan tài phán quốc tế có thẩm quyền để giải quyết mà chỉ dám phản đối lấy
lệ?
Những tuyên bố của lãnh đạo CSVN như “không đánh đổi chủ quyền
để lấy tình hữu nghị viễn vong“ hoặc “Trung Quốc làm vậy, sao giữ được
hòa hiếu?“, hoặc khuyến khích ngư dân bám biển, v.v... chỉ cốt để
cho người dân nghe mà ngỡ rằng, lãnh đạo đảng cũng “yêu nước” đấy! Chứ hoàn toàn
không giải quyết được điều gì như thực tế đã cho thấy, và chắc chắn lãnh đạo
đảng cũng biết như vậy. Thế nhưng tại sao đảng vẫn cự tuyệt đa phương hoá, quốc
tế hoá vấn đề Biển Đông đúng như luật biển đã quy định đó là vùng biển quốc tế?
Mà cứ bám vào chủ trương “giải quyết song phương” của Trung Cộng đưa ra? Dù ai
cũng biết đó là cách Trung cộng dễ bắt nạt các nước nhỏ yếu hơn, để dần dần chiếm
trọn vùng biển lưỡi bò. Điều này khiến người ta không khỏi nêu lên câu hỏi khác.
Phải chăng có sự khuất tất của CSVN trong vấn đề này?
Bao lâu nay những điều thâm cung bí sử của đảng CSVN, những điều mà
đảng CSVN cho là bí mật và luôn muốn giấu người dân, như chuyện đời tư của Hồ Chí
Minh, chuyện Công hàm Phạm Văn Đồng 1958, cho đến Mật nghị Thành Đô… Thế nhưng
kể từ khi Trung cộng lộ rõ bản chất bá quyền và có những hành động xâm lăng
biển đảo của Việt Nam, vấp phải sự chống đối của người dân Việt, thì Bắc Kinh
bắt đầu tiết lộ một số những điều bí mật mà hai bên đã từng giữ kín từ lâu nay,
trong mục tiêu biện minh cho các hành động xâm lược của họ.
Phải chăng lãnh đạo CSVN không dám kiện Trung cộng ra toà án quốc
tế vì lo sợ Bắc Kinh sẽ tiết lộ thêm những bí mật khác khiến cho đảng khó ăn
khó nói, khó chống đỡ? Như họ đã từng làm khi đưa ra Công hàm Phạm Văn Đồng, sách
giáo khoa, bản đồ (của CSVN) v.v.. như là những “bằng chứng không thể chối cãi”
rằng, CSVN đã chính thức thừa nhận vùng Biển Đông là thuộc về Trung Quốc?
Hiện tượng quân đội không bảo vệ chủ quyền đất nước mà lại giao lưu
với giặc, như được đề cập ở trên, chỉ là một trong rất nhiều điều đã từng diễn
ra, củng cố cho nghi vấn về những sự khuất tất của đảng CSVN.
Việt Nam mất nước là vì vậy.
Trong một giờ học về trách nhiệm với cộng đồng, bà giáo già nói với các học
sinh rằng hãy trả lời các câu hỏi bằng cách cẩn thận viết ra trên máy tính –
nhưng sai thì cứ để nguyên và viết lại – chứ đừng dùng chức năng sửa hoặc undo.
Đó là một trong những câu chuyện giáo dục đem lại thật nhiều điều
để ngẫm nghĩ. Bà giáo già người Mỹ dạy kèm cho các học sinh đủ màu da, nói rằng
bà muốn tập cho thế hệ mới thói quen chín chắn, quyết định và hành động có trách
nhiệm hơn là lười biếng dựa vào phần undo để nhanh chóng sửa chữa sai lầm của
mình.
“Cuộc sống thật không có chuyện undo, khi sai lầm thì người ta phải
đối diện và chịu trách nhiệm với nó”, bà giáo nói. Quả vậy, buổi học về ý thức
xã hội đó cho thấy thế giới ảo rất khác với đời thật. Cuộc sống thật khắc nghiệt
hơn nhiều, đầy đủ các mặt giá trị phải chấp nhận mà không phép màu nào có thể
bôi xoá.
Undo trong ngôn ngữ điện toán, được dịch là hoàn tác vụ. Ý nghĩa là
con người có khả năng thay đổi, sửa sai tức thì – cũng như giấu đi phần vừa thất
bại của mình. Trong đời sống, không phải sai lầm nào cũng có thể giấu đi, nhất
là sai lầm được ghi nhận trong lịch sử con người.
Mới đây, trang ntd.tv cho biết, hoa hậu Canada, người gốc Trung
Quốc là Anastasia Lin đang bị chính quyền Trung Quốc gây áp lực với gia đình
còn đang ở trong đại lục, vì cô có những quan điểm bảo vệ tự do và nhân quyền.
Trong lịch sử Trung Quốc hiện đại, đây rõ là phần không thể undo, và là một vết
nhơ thật khó tả.
Ngày 16/5, ngay khi có tin Anastasia Lin nhận giải Miss World Canada
tại Torornto ở tuổi 25, điều đầu tiên làm người ta ngạc nhiên là sự tức giận
của chính quyền Trung Quốc. Ngay lập tức, hệ thống công an mạng đã rầm rập ra
quân, ngăn chận tin tức và hình ảnh của Anastasia Lin không cho đến với người dân
Trung Quốc.
Nguyên nhân của chuyện oái ăm này, là do Anastasia Lin đã tham gia
đóng trong một vài bộ phim, mà nội dung thì chính quyền Trung Quốc không vui.
Trong đó có một phim về đề tài động đất ở Tứ Xuyên năm 2008. Nhân vật chính mà
Lin thể hiện, là một nạn nhân trong việc chính quyền tham nhũng khiến các toà nhà
cao tầng yếu ớt đổ sụp nhanh chóng, chôn vùi hàng ngàn người. Dù đây là chuyện
có thật được kể lại, nhưng Lin bị xem là thành phần phản động khi chỉ trích nạn
tham nhũng ở Trung Quốc.
Vài bộ phim khác cũng khiến cô vào “sổ bìa đen” của chính quyền Bắc
Kinh, là những phim nói về nạn buôn bán nội tạng bất hợp pháp tại Trung Quốc (The
Bleeding Edge, Destined) và gần đây là phim Red Lotus, nói về nạn đàn áp và giết
hại các học viên Pháp Luân Công. Ngoài việc là một cô gái Châu Á xinh đẹp nên
dễ nhận được vai diễn, Anastasia Lin còn là sinh viên về ngành quan hệ quốc tế
nên ý thức về xã hội, đất nước… hình thành trong cô rất rõ. Dù di dân đến Canada
khi chỉ vừa 13 tuổi, nhưng bản thân Anastasia Lin luôn ngóng về quê hương, kêu
gọi việc bảo vệ con người, xây dựng một Trung Quốc tốt đẹp hơn.
Thật trớ trêu, nhiều nhóm công an chìm đã đến nhà cha của cô Anastasia
Lin, đe doạ và nói nếu gia đình không ngăn cấm Lin đóng phim hay tuyên bố về
quyền con người, cha của cô sẽ phải bị triệu tập và hứng chịu các cuộc đấu tố
không khác gì thời cách mạng văn hoá.
Điều khó tin là ở thời đại này, chính quyền Bắc Kinh không những muốn
đàn áp con người trong nước, lại còn muốn vươn tay dài hơn để hăm doạ phần còn
lại của thế giới. Tấn công Anastasia Lin hay ráo riết đâm chìm tàu ngư dân Việt
Nam tại biển Đông cũng chỉ là một sách lược được nhân rộng của một hệ thống không
còn màng đạo nghĩa, dù chính nơi đó là vùng đất từng sản sinh ra các luận thuyết
cao quí nhất về đạo nghĩa.
Dĩ nhiên, như một máy tính hư hỏng không còn khả năng undo, Bắc Kinh
đang đi sâu vào con đường hầm tăm tối của họ. Theo yêu cầu của Tập Cận Bình,
trong 3 năm tới, nước này sẽ chi hơn 180 tỉ USD, nhằm kiện toàn một hệ thống
internet, theo tuyên bố của Tập Cận Bình nhằm chống lại “các thế lực thù địch
phương Tây” và giới bất đồng chính kiến. Chỉ riêng trong năm 2015, sẽ có 70 tỉ
USD được Trung Quốc chi ra nhằm hoàn thiện tường lửa, kiểm duyệt trên mạng – một
hệ thống mà các chuyên gia tin học gọi tên đó “Great Firewall” (Vạn lý Hoả Thành)
vì sự tinh vi và chằng chịt ngăn cấm, truy đuổi danh tính người dùng… Con số 70
tỉ này có được từ tiền đóng thuế của nhân dân Trung Quốc, và dùng để chống lại
những con người Trung Quốc, như Anastasia Lin.
Dường như bài học nhỏ về nhân cách và trách nhiệm với cuộc đời mà
bà giáo già dạy cho lũ trẻ nhỏ, chưa bao giờ được áp dụng với những người lãnh
đạo ở Trung Quốc.
Không ai có thể dát vàng được lịch sử của mình, nhưng ít nhất cũng
đừng tự làm nhơ nhuốc vì sự gian trá và chống lại con người. Và chống lại con
người như với Anastasia Lin hay những ngư dân Việt Nam, sẽ mãi là những điều không
thể nào xoá nhoà được trong lịch sử Trung Quốc hay của cả thế giới.
Một chính quyền như vậy, sao có thể là bạn? Quá khứ của những ai chọn
kẻ ác làm bạn, sẽ không thể có khả năng xoá đi hay undo về lựa chọn sai lầm làm
mãi mãi thương tổn bộ nhớ của dân tộc mình.
GNsP (29.05.2015)
– Sài Gòn – Ngày 19/5/2015, Bộ Chính Trị (BCT) ra Chỉ thị số 45 về việc tiếp
tục thực hiện Nghị quyết 36 về công tác với người Việt Nam ở nước ngoài. Họ kêu
gọi người VN ở nước ngoài “xoá bỏ mặc cảm, định kiến”.
Câu hỏi được đặt ra là ai, bên nào, mới thực sự
là còn mang “mặc cảm” của bạo lực khủng bố và “định kiến” rằng ta là kẻ chiến
thắng nên chính nghĩa thuộc về ta. Sau 40 năm ta vẫn muốn ăn mày dĩ vãng, bởi
vì ta tuy có sức mạnh tức thời của bạo lực nhưng không có sức mạnh nội lực lâu
dài của văn minh nhân loại. Cho nên kẻ cần “xoá bỏ mặc cảm, định kiến” là lãnh
đạo và đảng viên của đảng CSVN, chứ không phải người Việt hải ngoại, vì họ đã
rất thành công và được đất nước mới của họ trân trọng, đến độ Tổng Thống Obama
hồi tháng Sáu năm 2013 khi cùng ông Chủ Tịch Nuớc CSVN Truơng Tấn Sang công
khai gặp gỡ báo chí đã khuyên ông Sang nên liên hệ tốt với người Mỹ gốc Việt
nếu muốn quan hệ hai nước tiến lên tầm cao chiến lược.
CSVN nói rằng “…mọi người Việt Nam… mong muốn
góp phần… đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.”
Cho đến hôm nay, CSVN vẫn chưa có một lãnh tụ nào,
hay một chính sách nào có chủ trương HOÀ GIẢI (ngồi ngang tầm trong một môi
trường hoàn toàn tự do, không ràng buộc, để đối diện với sự thật lịch sử mà nói
chuyện phải quấy, trước khi đi xa hơn để có thể nói hay giải quyết những bế tắc
của đất nước) với bên phía thua cuộc, tức người Việt trong nước và ngoài nước
của phía Việt Nam Cộng Hoà. CSVN mang mặc cảm bất an và cao ngạo, họ chỉ chủ
trương HOÀ HỢP, ĐẠI ĐOÀN KẾT, tức muốn người ta chung vào cái rọ độc tài, chim
có hót thì hót trong chiếc lồng sắt của chế độ CS.
Có lẽ ông Tổng Bí Thư CSVN Nguyễn Phú Trọng sắp
đi Mỹ (dư luận là tháng Sáu 2015) nên CS có nhu cầu xoa dịu theo lối cha chú và
trịch thượng với người Việt hải ngoại, BCT viết “BCT cũng khẳng định người Việt
Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời… Mọi người VN ở nước ngoài đều được
khuyến khích… Các vấn đề còn tồn đọng sẽ được giải quyết trên tinh thần
cởi mở, chân thành, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai…”
Ai là kẻ không khép lại quá khứ mà tối ngày cứ
đi ăn mày dĩ vãng, nào chống Mỹ cứu nuớc, nào chị du kích bắn rớt máy bay, nào
chiến thắng Nguỵ nơi này nơi kia, nào ca ngợi và lãi nhãi các hành động bạo
lực, khủng bố, ám sát, đấp mô, ném bom vào dân chúng…?
Nguời CS dối trá trong thế kỷ 20 thì bùa này của
họ có linh do thiếu thông tin đa chiều và đại chúng lúc bấy giờ, ngày nay là
thế kỷ 21 của Thời Đại Thông Tin rồi, bùa tuyên truyền và dối trá không còn
linh thiêng nữa đâu, tiếc là CS không có khả năng thay đổi qua chân thật, cho
nên là sinh vật sắp tuyệt chủng vì không tự điều chỉnh được qua môi trường sống
hoàn toàn mới và khác xưa.
BCT viết “Nhà nước sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ
với các nước có người Việt Nam sinh sống nhằm hỗ trợ bà con có địa vị pháp lý
vững chắc, bảo đảm cuộc sống lâu dài ở nơi cư trú…” Câu này thật khôi hài, ai
cần CS “hỗ trợ”? Người Việt hải ngoại nhìn về VN với những nạn nhân của CS mặt
đầy máu me, chân bị đánh gãy… những khúc ruột trong lòng đất nước mà còn như
vậy thì những khúc ruột ngàn dặm có ý nghĩa gì, ngoài việc không thể tránh được,
khi CS muốn làm thân với các chính quyền trên đất nước mới của người Việt hải
ngoại.
Người CS chỉ muốn đi tắt với chính quyền Mỹ và
các nước dân chủ tự do, nhưng khổ nỗi là KHÔNG THỂ ĐƯỢC vì trong các nước dân
chủ, chính quyền không thể bỏ dân hay khinh dân như trong các nước CS. TT W
Bush thắng ông Al Gore ở Florida chỉ khoảng 200 phiếu, người Mỹ gốc Việt đóng
góp khoảng một triệu phiếu cho các kỳ bầu cử, tuy không phải là sức mạnh đa số,
nhưng là sức mạnh của quả lắc, có thể làm thay đổi kết quả bầu cử.
Con đường CS đi đến Hoa Thịnh Đốn nó bắt buộc
phải đi ngang qua cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Trong khi đó, cộng đồng người Mỹ
gốc Việt đã quá đầy đủ trong sự bảo vệ của chính quyền Mỹ, họ không cần gì từ
CSVN cả, điều họ cần là những người dân cùng giòng máu của họ đang ở VN cũng có
được những điều kiện và môi trường sống tương tự như họ. Cuối cùng rồi thì CSVN
phải đối diện với chính người dân trong nước. CS chối bỏ cái thực tế này thì
tức là họ chọn tiến trình tự huỷ.
Nghị Quyết 36 chỉ có tác dụng nuôi dưỡng tham
nhũng trong đảng qua “các kênh phát thanh, truyền hình phục vụ người Việt Nam ở
nước ngoài, phát thanh, truyền hình đối ngoại, truyền hình qua mạng IPTV hoặc
hệ thống truyền hình của nước sở tại…” vì qua hơn 10 năm nghị quyết này chẳng
có tác dụng gì, hải ngoại vẫn càng ngày càng nhiệt tình hỗ trợ nhân quyền dân
chủ trong nước hơn, các lãnh tụ CS khi qua Mỹ vẫn giữ bí mật thời gian và địa
điểm, vẫn đi cửa sau, trốn chạy cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Nghị Quyết 36 là
một thất bại thảm hại dù cho nó có răng (có ngân sách).
BCT làm như Mỹ và các nuớc tây phuơng là VN khi
viết “nghiên cứu thí điểm công nhận các chi hội người Việt Nam ở nước ngoài là
thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt
Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam…” CS lấy
hệ thống giá trị độc tài của mình để phán các môi trường hoàn toàn tự do, thật
duy ý chí!
Ở Mỹ và các nước tự do dân chủ, quyền tự do lập
hội được triệt để tôn trọng, hoạt động không cần đăng ký, nếu hội nào muốn có
tư cách pháp nhân để mở trương mục ngân hàng v.v.. thì đăng ký, các hội đoàn tư
được khuyến khích hoạt động và hoàn toàn độc lập, không có kiểu chính quyền tìm
cách kiểm soát và khống chế như ở VN.
Để kết luận, CS nên dẹp Nghị Quyết 36 vì nó tốn
tiền thuế của dân để nuôi tham nhũng, chẳng có tác dụng thu phục gì với người
Việt hải ngoại cả. CS nên hiểu rằng họ không thể đi tắt/short cut cộng đồng
người Mỹ gốc Việt trên con đường tiến đến Washington ở tầm chiến luợc cao hơn.
Để không đi tắt, CS nên HOÀ GIẢI với những người dân chủ ôn hoà trong nước trước,
thả họ ra, tôn trọng họ, xem họ là lực lượng đối lập ngang tầm. Vì lợi ích của
chính những người CS, họ nên hiểu là thời thế đã đổi thay.
Lê Minh Nguyên