Trích Tạp Chí Cách Mạng
Số 72 của Đại Việt Cách Mạng Đảng
Với hai bộ mặt, vừa hiền lành, vừa bá đạo
Trung Quốc chưa phải là một “nước cần phải có”
Bùi Diễm
Cách
đây gần hai thập niên, dưới thời Tổng Thống Hoa Kỳ Clinton, bà Madeleine
Albright, Ngoại Trưởng thời đó, đã có lần tuyên bố: Hoa Kỳ là “nước cần phải
có” (“the indispensable nation”) để nói về vai trò của Hoa Kỳ trên thế giới.
Thời gian gần đây, đặc biệt sau buổi họp thượng đỉnh của tổ chức APEC (Asian
Pacific Economic Co-operation) ở Bắc Kinh tháng 11 vừa qua, trong số những bình
luận gia trên thế giới một số người đã nêu lên một câu hỏi có tính cách gián tiếp
nhìn nhận là Trung Quốc đã bước thêm được một bước trên con đường đang chạy đua
ảnh hưởng với Hoa Kỳ.
Câu hỏi đó là: với cung cách dàn dựng và đạo diễn của Bắc
kinh để tổ chức cuộc họp thượng đỉnh này với trên 20 nguyên thủ các nước trên
thế giới tham dự và đặc biệt với cung cách cư xử thân thiện của ông Tập Cận
Bình, Chủ Tịch Nước, đối với các thượng khách từ phương xa tới, phải chăng
Trung Quốc muốn trở thành “một nước cần phải có” như siêu cường quốc Hoa
Kỳ? Thực ra thì vấn đề chạy đua giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc không phải chỉ lúc
này mới được đặt ra mà đã được đặt ra từ đầu thế kỷ và sẽ còn là vấn đề then
chốt trong tương lai những thập niên tới.
Có hay không có ổn định và hòa bình
trong vùng Châu Á-Thái Bình Dương, hay nói rộng ra trên thế giới, sẽ tùy thuộc
rất nhiều vào những biến chuyển trong mối quan hệ giữa hai nước. Sở dĩ lúc này
câu hỏi được đưa ra về nhận định nước nào là nước “cần phải có” là vì, đúng hay
sai, dư luận chung trên thế giới gần đây cho rằng ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên
chính trường quốc tế đang trên đường đi xuống dưới thời chính quyền Obama;
trong khi đó thì Trung Quốc nay, đang dưới thời triều đại Tập Cận Bình, lại tỏ
vẻ muốn vươn lên đóng vai trò một đại cường quốc, “một nước cần phải có”.
Ông Obama và địa vị lãnh đạo của nước Mỹ trên
thế giới.
Ông Obama được bầu lên làm Tổng Thống cuối năm 2008
vào thời điểm người dân Hoa Kỳ bắt đầu ngán về cuộc chiến tranh kéo dài tại Irak,
mặc dầu vào lúc đó tình hình ở Irak cũng như ở Afghanistan đã tạm yên. Ông được
thời được thế với chủ trương chống chiến tranh, và lời hứa sớm giảm thiểu vai
trò của nước Mỹ trên thế giới để nước Mỹ có thể trở vế với những vấn đề nội bộ.
Ông được sự ủng hộ của người dân Hoa Kỳ và dư luận chung trên thế giới,
đặc biệt là trong các giới khuynh tả. Ông được giải thưởng Nobel ngay từ những
ngày đầu nhiệm kỳ của ông và nhiều người cho rằng với hào quang ấy, ông sẽ lấy
lại được uy tín của nước Mỹ trên chính trường quốc tế một phần nào đã bị suy
giảm bởi những quyết định đơn phương của ông Bush (ông Bush con), người tiền
nhiệm của ông.
Nhưng rồi với thời gian có người lại cho rằng nếu trong quá khứ
nhiều khi ông Bush đã quá tay, hay quyết định quá nhanh, thì ngược lại ông
Obama lại thận trọng, dè dặt quá, tới mức mà nhiều người ngay trong đảng Dân Chủ
(hay nhật báo độc lập Washington Post ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn) phải đưa ra lời
nhận định là thận trọng không có nghĩa là không làm gì. Nhằm giải quyết những
vấn đề khó khăn hay những cuộc khủng hoảng ở nơi này, nơi khác trên thế giới,
ông chủ trương tiếp cận, đối thoại, ngay cả với đối phương, để thương lượng tìm
những giải pháp dung hòa và tránh những trường hợp phải đối đầu.
Cũng vì vậy mà
những người chỉ trích ông cho rằng ông lý luận nhiều, hành động ít. Nhìn lại
khoảng thời gian 6 năm, nhiệm kỳ đầu và nay nửa đường nhiệm kỳ hai của ông
Obama, chính giới Hoa Kỳ cho rằng trong nhiều trường hợp ông đã bỏ lỡ nhiều cơ
hội do đó mà những nước không có thiện cảm với Hoa Kỳ, hay những nhóm khủng bố
quá khích mới, lợi dụng được tình thế để làm suy nhược ảnh hưởng của nước Mỹ
trên thế giới. Trong vụ khủng hoảng ở Bắc Phi chống nhà độc tài Gaddafi ông
quyết định can thiệp nhưng cũng chỉ can thiệp nửa chừng, giúp Anh và Pháp bằng
một vài vụ oanh kích một số cơ sở quân sự của Lybia rồi bỏ đó không cần biết
tình thế sẽ biến chuyển ra sao (lề lối can thiệp của ông bị người ta chế giễu
gọi là “lãnh đạo nhưng đứng đằng sau”, “leadership from behind”).
Rồi tiếp đến
là cuộc cách mạng của người dân Ai Cập chống nhà độc tài Mubarak, tại đây thì
nền ngoại giao của ông tỏ ra hết sức lúng túng, lúc thì ủng hộ Tổng Thống Morsi,
người của tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo, lúc thì ủng hộ nhóm quân nhân lật đổ ông
Morsi, nay thì cắt viện trợ, mai thì lại viện trợ nhưng chỉ viện trợ những dụng
cụ cần thiết. Tình trạng mâu thuẫn này lại càng nổi bật hơn nữa trong trường hợp
những thành phần ôn hòa ở Syria miền Trung Đông nổi dậy chống chế độ độc tài
Assad. Ngay từ giai đoạn đầu của cuộc xung đột tại đây làm cho hàng trăm ngàn
người thiệt mạng, và gần hai triệu người phải tìm đường lánh nạn bên kia biên
giới Thổ Nhĩ Kỳ, ông Obama đã lên tiếng công khai là nhà độc tài Assad “phải đi”.
Nói như vậy nhưng ông không có một quyết định nào để giúp đỡ nhóm những người ôn
hòa, ngoại trừ một ngân khoản viện trợ nhân đạo.
Rồi tới lúc dược tin chính quyền
Assad đã xử dụng loại khí giới hóa học trong cuộc chiến, điều mà chính ông đã
tuyên bố là không thể chấp nhận được, người ta cũng không thấy phản ứng nào từ
phía Hoa Kỳ, mãi tới khi Liên Hiệp Quốc xác nhận tin này ông mới ra lệnh điều
động một số chiến hạm của Mỹ tới gần bờ biển Syria. Mọi người chờ đợi những hỏa
tiễn Tomahawk sẽ mở cuộc tấn công vào Syria nhưng rồi ông lại thay đổi quyết định,
chấp nhận một đề nghị của ông Putin yêu cầu chế độ Assad đặt hệ thống những loại
khí giới hóa học dưới quyền kiểm soát quốc tế, điều mà Assad đồng ý ngay.
Vấn
đề khí giới hóa học được tạm gác sang một bên, nhưng cuộc chiến vẫn kéo dài cho
đến nay đã ba năm với con số người bị thiệt mạng lên tới gần hai trăm ngàn người,
cùng với gần hai triệu người tìm đường lánh nạn và nhóm người ôn hòa vẫn chờ
đợi sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Trong khi đó thì nhà độc tài Assad vẫn còn ngồi nguyên
tại chỗ. Vế quyết định của ông không can thiệp vào cuộc xung đột ở Syria, và
không trực tiếp và tích cực giúp những người chống lại chế độ Assad, ông Obama
có đưa ra lời bào chữa trong một bài diễn văn đọc tại trường huấn luyện sĩ quan
Hoa Kỳ West Point.
Ông cho rằng “những cuộc khủng hoảng trên thế giới không
nhất thiết phải được giải quyết bằng chiến tranh” và đổ lỗi cho những người chỉ
trích ông là hiếu chiến. Thực ra, mặc dầu những người ủng hộ ông cho rằng vì
ông thận trọng nên Hoa Kỳ mới tránh được lầm lỗi (ngụ ý là trong quá khứ chính quyền
Bush đã thiếu thận trọng và đưa Hoa Kỳ vào vòng chiến ở Irak), người ta chỉ
trích ông vì chính quyết định không can thiệp vào cuộc chiến ở Syria, không tích
cực giúp đỡ những nhóm người ôn hòa, cũng như quyết định rút ra khỏi Irak quá
sớm (không đẩy mạnh việc điều đình với chính phủ Irak để giữ lại một số quân
tại đây) đã đưa đến tình trạng ngày nay Hoa Kỳ phải đối phó với hiểm họa từ phía
nhóm Quốc Gia Hồi Giáo quá khích đang chiếm đóng miền Tây Bắc Irak và Đông Bắc
Syria.
Nếu không kể đến những cố gắng của Hoa Kỳ, liên tiếp trong nhiều năm trong
vai trò trung gian để tiến tới một giải pháp hòa bình giữa Israel và Palestine,
nhưng không đem lại được kết quả nào. Sự thiếu vắng vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ
tại Trung Đông lại còn được nổi bật rõ rệt hơn nữa ở những nơi khác như trong
trường hợp ông Putin, Chủ Tịch liên Bang Nga, ngang nhiên chiếm đoạt bán đảo
Crimea của Ukraine tại miền Đông Âu Châu, làm đảo lộn nền trật tự chung mà Hoa
Kỳ mặc nhiên được coi là có trách nhiệm gìn giữ.
Tại đây, không những không làm
được gì để trừng phạt Nga, hay ngăn ngừa Nga tiến tới với mưu đồ chiếm thêm
miền Đông Ukraine, (ngoại trừ một số biện pháp cấm vận cùng với một số nước Âu
Châu) ông Obama, cũng lại như trong trường hợp Syria, từ chối giúp đỡ khí giới cho
chính phủ Ukraine để nước này có thể một phần nào chống đỡ sự xâm lăng của Nga.
Phải chăng ông cho rằng những vấn đề ở Trung Đông hay ở Âu Châu không đáng quan
tâm và đã trông thấy những khó khăn của Hoa Kỳ trong tương lai bên phía trời Đông
khi phải đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc, do đó mà phải chuyển hướng chính
sách sang miền Châu Á-Thái Bình Dương?
Ông Obama và chủ trương bá quyền của
Trung Cộng
Thực ra thì từ những năm cuối thế kỷ trước, giới
quan sát quốc tế đã có nhận định là ảnh hưởng của các nước Âu Châu bị suy giảm nhiều,
vì nền kinh tế của nhiều nước ở Châu này bị trì trệ và tình hình tại những nước
ở Trung Đông thì phức tạp; trong khi đó thì nền kinh tế của các nước ở Á Châu
lại được đà phát triển nhanh, đặc biệt có trường hợp của ba nước lớn Nhật Bản,
Trung Quốc và Ấn Độ (hai nước này với dân số mỗi nước hơn một tỷ người), ấy là
chưa kể Nam Hàn và một số nước khác trong vùng Đông Nam Á. Người ta được nhìn
thấy chỉ trong vòng có hơn hai thập niên mà Trung Quốc đã vượt lên trên Đức Quốc,
rồi Nhật Bản, để trở thành một cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới, chỉ đứng
sau có Hoa Kỳ. Với mức phát triển này cùng với những nỗ lực tăng cường về mặt
quân sự của nhà cầm quyền Bắc Kinh, liên tiếp năm này qua năm khác từ thời Chủ
Tịch Hồ Cẩm Đào, ai cũng nghĩ là mối quan tâm của Hoa Kỳ được chuyển từ miền Tây
sang miền Đông là hợp lý nhưng vấn đề được đặt ra là Hoa Kỳ làm được gì hay cần
phải có thái độ thích ứng nào đối với sự trỗi dậy của một cường quốc đang lên
dưới quuyền cai trị của một đảng Cộng Sản?
Nói cho đúng thì để trấn an những nước lo ngại về
chủ trương bá quyền của Trung Cộng nhằm bành trướng ảnh hưởng xuống miền Nam,
ngay từ nhiệm kỳ đầu của ông Obama, người ta đã thấy nhiều nhân vật cấp cao của
Hoa Kỳ (bà Ngoại Trưởng Hilary Clinton, hai ông Bộ Trưởng Quốc Phòng Gates,
Panetta và cả Tổng Thống Obama) thay nhau viếng thăm những nước Á Châu, trước
hết để công khai nhắc lại mối quan hệ đồng minh giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản, Nam
Hàn, Phi luật Tân và mối quan hệ đối tác chiến lược với Úc Đại Lợi
(Australia), Tân Gia Ba (Singapore) hay Nam Dương (Indonesia), và nếu có cơ hội
thì cũng làm thân với Việt Nam. Về mặt quân sự thì Hoa Kỳ đạt được thỏa hiệp
với Phi Luật Tân và Úc Đại Lợi để luân chuyển gửi một số đơn vị của quân đội Mỹ
tới Phi Luật Tân và một số đơn vị khác tới đồn trú tại Port Darwin, miền Bắc Úc
Đại Lợi. Còn về mặt kinh tế thì Hoa Kỳ đẩy mạnh việc thành hình một hiệp định
thương mại xuyên Thái Bình Dương gọi là TPP (TransPacific Parnertship) với 12
nước Á Châu. Trải qua những thời kỳ nóng, lạnh, lúc căng thẳng, lúc êm ả của
mối quan hệ hết sức phức tạp giữa hai nước, những nỗ lực về mặt ngoại giao của
Hoa Kỳ lúc này lại bước sang một giai đoạn mới.
Sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, ông Obama gặp ông
Tập Cận Bình
Cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tháng 11 mới đây của Hoa
Kỳ không đem lại một kết quả bất ngờ nào. Đúng với những dự đoán của chính giới
ở Hoa Thịnh Đốn, đảng Cộng Hòa vẫn giữ được đa số tại Hạ Viện và đã chiếm lại
được đa số tại Thượng Viện từ tay đảng Dân Chủ. Như vậy, trong hai năm tới còn
lại của nhiệm kỳ hai và chót, ông Obama sẽ khó lòng thực hiện được điều gì như
ý muốn về mặt nội bộ và như người ta thường nói ông bị đặt vào hoàn cảnh một “con
vịt què” (lame duck). Nói như vậy không có nghĩa là ông không làm được việc gì
về mặt đối ngoại. Trong lãnh vực này, ông ít bị ràng buộc hơn là trong lãnh vực
nội bộ và có thể có sáng kiến để tăng cường thế mạnh của nước Mỹ ở nơi này hay
nơi khác trên thế giới, nhưng dường như trong chính giới không mấy ai muốn đặt
tin tưởng nơi ông, mặc dầu chỉ có 5 ngày sau khi đảng Dân Chủ và chính ông bị
thất bại trong cuộc bầu cử ông đã vui vẻ lên đường thực hiện chuyến công du ở Á
Châu.
Chuyến công du này gồm có ba chặng đường, một là
Bắc Kinh để có cuộc đối thoại tay đôi với ông Tập Cận Bình về mối quan hệ giữa Hoa
Kỳ và Trung Quốc và để dự cuộc họp thượng đỉnh Hợp Tác Kinh Tế Á Châu-Thái Bình
Dượng (APEC); hai là thủ đô Miến Điện dể dự một buổi họp thượng đỉnh của khối
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), hội đàm với nhà cầm quyền nơi đây và bà Aung
San Sui Kyi, và sau cùng là thủ đô của Úc Đại Lợi để dự cuộc họp cũng thượng đỉnh
của khối những nước được gọi là G20. Chuyến viếng thăm của ông Obama tại hai
chặng đường cuối là Miến Điện và Úc Đại Lợi không mang lại kết quả nào đáng kể,
trái lại ngay tại chặng đầu, trong một cuộc gặp gỡ tay đôi, hai ông Obama và
Tập Cận Bình đã đạt được một số kết quả tương đối tích cực, ngoài ra đặc biệt hơn
cả, dư luận chung trên thế giới đặt tất cả sự chú ý vào những nỗ lực vượt bực của
nhà cầm quyền Bắc Kinh để làm nổi bật lên vai trò của Trung Quốc tại hai hội nghị
quốc tế quan trọng, một vai trò mà có lẽ ông Tập Cận Bình coi là một bước tiến trên
con đường thực hiện “giấc mơ Trung Quốc” thường được ông đề cập tới trước đây
trong những lời tuyên bố.
Trước hết về cuộc hội đàm tay đôi giữa Hoa Kỳ và
Trung Quốc thì phái đoàn hai nước đã đạt một số thỏa thuận như: chiếu khán cho
những người qua lại giữa hai nước nay là 10 năm chứ không bị hạn chế như trước,
giảm mức thuế đánh trên những sản phẩm loại kỹ thuật cao ngành thông tin, một
số biện pháp về mặt quân sự nhằm ngăn ngừa những những hiểu lầm có thể xẩy ra,
và sau cùng là một thỏa ước về môi sinh để làm giảm bớt khí thải từ những loại
kỹ nghệ chạy bằng than làm ô nhiễm bầu không khí, và có thể ảnh hưởng đến khí hậu
trong tương lai (climate change). Những kết quả này có thể được coi là tích cực,
và nhiều quan sát viên coi thỏa hiệp về môi sinh là quan trọng vì cho tới nay
chưa bao giờ Bắc Kinh đồng ý chấp nhận một thời hạn nào để làm giảm bớt tình
trạng tệ hại của Trung Quốc trong lãnh vực này. Quan hệ Mỹ Trung như vậy đã
tiến thêm được một bước, và điều đó chính là do thái độ cởi mở cũng như tinh thần
sẵn sàng thỏa hiệp từ phía ông Tập Cận Bình. Nhưng rồi, do sự sắp xếp của Bắc
Kinh, sự chú ý của mọi người cũng như của giới truyền thông quốc tế được chuyển
ngay sang cuộc họp thượng đỉnh của APEC ngày hôm sau.
Bộ mặt hiền lành và thân thiện của Trung Quốc
Cơ hội đến thật đúng lúc cho nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Do thông lệ luân phiên giữa các nước Á Châu, năm nay họ được trao trách nhiệm
tổ chức cuộc họp thượng đỉnh của APEC (Hợp Tác Kinh Tế Á Châu-Thái Bình Dương).
Hơn 20 vị nguyên thủ cùng với phái đoàn từ các nước đến là một dịp đặc biệt để
cho họ phô trương thanh thế. Họ không bỏ lỡ cơ hội và màn trình diễn trong
những ngày họp cho thấy rõ chủ đích của họ. Họ muốn chứng tỏ, trước hết cho
người dân Trung Quốc, và sau nữa cho dư luận trên chính trường quốc tế, là vai
trò của Trung Quốc ngày nay là vai trò của một cường quốc lớn đáng tin cậy, thân
thiện, sẵn sàng hợp tác với các nước.
Ngoài ra sự xuất hiện của ông Tập Cận Bình
cũng được sắp đặt trong chi tiết, từ chỗ đứng cho đến thái độ, cử chỉ của ông
mỗi khi chào đón mọi người. Ông đứng thẳng người, tại chỗ và chờ đợi, tươi cười
bắt tay những vị quốc khách tiến tới ông. Ngay ngày đầu, ông đã loan báo một số
thỏa hiệp về mậu dịch với Nam Hàn và Úc Đại Lợi, sự đồng ý với Tổng Thống Phi
Luật Tân về một số vấn đề song phương giữa hai nước, và đặc biệt hơn cả sự thỏa
thuận giữa ông và Thủ Tướng Nhật Bản Shinzo Abe để hai nước trao đổi quan điểm
ở cấp cao về những vấn đề giữa Trung Quốc và Nhật Bản (mặc dầu lúc trước đã có
tin đồn là ông không muốn có sự gặp gỡ tay đôi với ông Abe và ai cũng nhận thấy
là ông đón tiếp ông Abe bằng một thái độ rất lạnh nhạt).
Dàn dựng một cuộc tiếp đón ông Obama một cách trang
trọng và một cuộc hội đàm song phương với Hoa Kỳ, rồi liền sau đó là một màn
trình diễn ngoạn mục để chinh phục một cử tọa gồm hơn 20 vị nguyên thủ quốc gia
và các phái đoàn từ các nước lớn nhỏ tới, và sau chót là lời tuyên bố của ông Tập
Cận Bình mấy ngày sau tại Hội nghị ở Úc Đại Lợi của các nước thuộc khối G20 là:
“Trung Quốc sẽ không dùng vũ lực trong những vụ tranh chấp với các nước lân
bang”, Bắc Kinh và ông Tập cận Bình đã mở đầu một chiến dịch ngoại giao và
mục tiêu của chiến dịch là đưa lên bộ mặt hiền lành và thân thiện của Trung
Quốc.
Bộ mặt bá đạo của Trung Cộng
Bộ mặt thân thiện này tuy nhiên cũng nhiều khi để
lộ ra những kẽ hở. Ngay một ngày trước khi ông Obama tới Bắc Kinh, người
ta đã được thấy một vài tờ báo tại đây tung ra những bài báo nhắc nhở trường
hợp ông Obama nay chỉ là “con vịt què”, do đó ông không còn ảnh hưởng gì nhiều
trên chính trường quốc tế. Ngoài ra về chính sách của Hoa Kỳ chuyển trọng tâm
sang miền Đông thì tất cả cũng chỉ là những mưu mô bao vây Trung Quốc và ngăn
chặn bước tiến đi lên của Trung Quốc. Một cách thực tế và cụ thể hơn nữa, như
để đối phó với nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm thực hiện hiệp định Hợp Tác Xuyên Thái
Bình Dương (TPP), Trung Quốc đưa ra đề nghị một hiệp định Tự Do Mậu Dịch cho
toàn vùng Châu Á Thái Bình Dương gọi là FTAAP (Free Trade Area Asian Pacific).
Còn để đối phó với những định chế quốc tế như Ngân Hàng Phát triển Á Châu, Ngân
Hàng Thế Giới, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, tại đó, Bắc Kinh cho rằng phần dành cho
Trung Quốc quá nhỏ và không xứng với vai trò của Trung Quốc thì nay Bắc Kinh đề
nghị thành lập một ngân hàng gọi là Ngân Hàng Đầu Tư Hạ Tầng Cơ Sở Á Châu
(Asian Infrastructure Investment Bank), rồi tuyên bố sẵn sàng đóng góp ngay 50
tỷ Mỹ kim. Những đề nghị như trên đây cho thấy rõ tham vọng bá quyền của Trung
Quốc là tranh dành ảnh hưởng với Hoa Kỳ trên thế giới trong lãnh vực kinh tế.
Trong lãnh vực an ninh, quân sự hay chiến lược, tham vọng này lại càng rõ rệt hơn
nữa. Không cần trở về thời của những lãnh tụ như Giang Trạch Dân hay Hồ Cẩm
Đào, người ta chỉ cần nhìn vào những hành động của Trung Quốc hai năm gần đây
dưới thời Tập Cận Bình như vụ tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản (một đồng minh
của Hoa Kỳ) trên đảo Điếu Ngư (Nhật Bản gọi là Senkaku), vụ tranh chấp với Phi
Luật Tân trên tiểu đảo Scarborough và đặc biệt hơn cả vụ điều động một dàn
khoan ngay vào vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế của Việt Nam, vụ xây cất những
cơ sở quân sự tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Và gần đây
hơn nữa lại có vụ máy bay của Trung Cộng bay sát máy bay của Hoa Kỳ chỉ cách có
chưa đầy 10 thước, và vụ Trung Cộng điều động tầu ngầm tới vùng Ấn Độ Dương
Tất cả những hành động trên đây trong hai năm qua,
nghĩa là từ khi ông Tập Cận Bình lên cầm quyền, là những thách thức không những
đối với những nước trong vùng Biển Đông mà cả đối với Hoa Kỳ. Dầu cho qua màn
trình diễn ở Bắc Kinh gần đây ông có chủ tâm tạo ra hình ảnh của một cường quốc
muốn hòa dịu và thân thiện với thế giới bên ngoài thì những sự kiện khó chối cãi
về những nỗ lực bành trướng ảnh hưởng xuống miền Nam của chính quyền do chính ông
lãnh đạo, cũng không che dấu nổi bộ mặt thứ hai cũng của cường quốc đó, một bộ
mặt khó có thể gọi là thân thiện được.
Ông Tập Cận Bình và tương lai chỗ đứng của Trung
Quốc trên thế giới
Trung Quốc được một vài giới quan sát mô tả như trên
đây là có hai bộ mặt. Thực ra, nói cho đúng thì không có hai bộ mặt mà chỉ có
một nước Tầu dưới sự lãnh đạo khá chặt chẽ của một người, ông Tập Cận Bình. Ông
mới lên cầm quyền có gần hai năm và nếu không có sự gì bất trắc thì ông sẽ còn
ngồi tại chức tám năm nữa. Chỉ trong thời gian ngắn ngủi chưa đầy hai năm mà
ông đã thâu tóm được hết quyền lực trong tay. Ông vừa là Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, vừa là Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Quân Ủy Hội. Dưới thời của các vị
tiền nhiệm thì quyền hành được đăt trong tay một Uỷ Ban Thường Vụ 9 người, và
lãnh đạo được gọi là lãnh đạo tập thể nhưng nay thì Uỷ ban này chỉ còn có 7 người,
lãnh đạo tập thể cũng như bị bãi bỏ vì ngoài ông Tập Cận Bình không thấy ai nói
đến 6 người kia. Ông còn là Chủ Tịch một loạt những ủy ban nghiên cứu những biện
pháp đổi mới trong mọi lãnh vực từ kinh tế, chính trị cho đến xã hội, và đặc biệt
hơn cả, ông đề xướng một chương trình rộng lớn chống tham nhũng và một vài sửa
đổi trong lãnh vực thi hành luật pháp.
Giới quan sát quốc tế cho rằng từ thời Mao
Chủ Tịch đến nay chưa có người nào nắm được nhiều quyền như ông. Một số người lạc
quan cho rằng ông là một nhà lãnh tụ có tư tưởng cấp tiến do đó rất có thể sẽ
có nhiều điều cải cách mới lạ, nhưng cho đến nay người ta chỉ thấy ngay trong
ngành thông tin mà nhà cầm quyền đã kiểm soát chặt chẽ những tin tức trên mạng
internet thì những đổi mới (nếu có), về mặt chính trị, cũng sẽ chỉ là để củng cố
vai trò toàn trị của đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Ông Tập Cận Binh là một lãnh tụ
chính trị năng động. Rồi đây người dân Trung Quốc sẽ còn phải trông chờ nhiều vào
lề lối cai trị đất nước của ông. Tuy nhiên, với tư thế của ông là người đứng đầu
của một cường quốc đang lên, cùng với tham vọng không dấu diếm của ông (và của
giới cầm quyền Bắc Kinh nói chung) muốn Trung Quốc đóng một vai trò tương xứng với
trình độ phát triển của Trung Quốc lúc này, thế giới bên ngoài cũng chịu ảnh hưởng
không ít về thái độ và cung cách cư xử của ông đối với diễn tiến của tình hình
trên chính trường quốc tế. Và đây chính là câu hỏi mà một số người nêu lên:
Trung Quốc có phải là một nước “cần phải có” không?
Ông Tập Cận Bình một đôi khi gần đây có nói về một
“giấc mơ Trung Quốc”, nhưng không ai được rõ giấc mơ đó ra sao, còn thái độ của
ông đối với siêu cường quốc Hoa Kỳ thì ông đề nghị là hai bên nên tìm “một mô thức
cho mối quan hệ giữa các nước lớn”, với ngụ ý là Trung Quốc đứng ngang hàng với
Mỹ. Vấn đề thực ra là tương quan lực lượng giữa hai bên. Trung Quốc nay đã trở
thành một cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới, chỉ sau có Hoa Kỳ, bề ngoài
này tuy vậy không che dấu được sự kiện Trung Quốc đang phải đối phó với một số
vấn đề lớn trong nội bộ như tham nhũng, khoảng cách giữa người giầu người nghèo,
giữa miền duyên hải và nội địa hay những vấn đề Tây Tạng và Tân Cương.
Một vài
định chế quốc tế có nói đến trường hợp là trong tương lai không xa, kinh tế của
Trung Quốc (tính sản lượng theo mãi lực, gọi là PPP Purchasing Power
Parity) có thể đã vượt lên trên Hoa Kỳ. Nhận dịnh này có lẽ còn sớm, vì nếu lấy
GDP tính bình quân đầu người thì con số của một người dân Trung Quốc chỉ vào
khoảng 7 hay 8 ngàn (Mỹ Kim); trong khi đó thì con số của người dân Hoa Kỳ là
trên 40 ngàn (Mỹ kim), còn nói chung nếu đem so sánh nền kinh tế của hai nước
thì trong hiện tại, trong lúc nền kinh tế của Trung Quốc bị chậm lại thì nền
kinh tế của Hoa Kỳ lại đang lên (mức phát triển trong mấy tháng vừa qua là 3,9
hơn hẳn mức 2,4 thường dược dự trù). Ấy là chưa kể đến cuộc cách mạng về năng
lượng của Hoa Kỳ làm cho họ rồi đây không còn cần đến nhập cảng dầu thô từ
Trung Đông nữa. Còn nếu đem so sánh hai nước về mặt quân sự, sự chênh lệch lực
lượng giữa hai bên lại còn rõ rệt hơn nữa, vì trên thực tế cho đến nay chưa có
nước nào qua mặt được Hoa Kỳ.
Trên
chính trường quốc tế lúc này thì về mặt thực tế tiếng nói của những nước Âu
Châu không còn có trọng lượng như trước nữa, và trường hợp của nước Nga thì
cũng không khác. Dầu cho ông Putin có nỗ lực tìm lại uy tín của Liên Bang Sô
Viết thuở trước bằng cách chiếm đoạt bán đảo Crimea của Ukraine, thì nước Nga
ngày nay cũng vẫn là một nước thiếu kỹ nghệ sản xuất với nền kinh tế phần lớn
dựa vào xuất cảng dầu, trong khi dầu lại đang sụt giá trên thị trường thế giới.
Như vậy có nghĩa là chỉ còn lại có Hoa Kỳ và Trung Quốc, một nước có tham vọng
bá quyền tuy được một vài nhà báo coi là một “cường quốc vùng” nhưng chưa đủ
khả năng can thiệp về mọi mặt trên thế giới. Dĩ nhiên, như đã được trình bầy,
tương lai của nền hòa bình ở Á Châu, và nói rộng ra trên thế giới, tùy thuộc
rất nhiều vào mối quan hệ giữa hai nước. Nhưng từ kết luận này mà nhận dịnh
Trung Quốc là một nước “cần phải có”, một lối nói như người ta đã từng gán cho
Hoa Kỳ thì quả thực là quá sớm.
Bùi Diễm
__._,_.___
No comments:
Post a Comment