Ảnh hưởng của Trung
Quốc đối với mối bang giao Việt – Mỹ
© Tú Hoa
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH
Trung Quốc là nhân tố ảnh huởng quyết định đến chiều sâu của mối
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Những hành động ứng xử của Bắc Kinh
về đối ngoại từ kinh tế đến quân sự trong vùng Đông Nam Á sẽ khiến tốc độ tiến
gần trong mối bang giao giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ xảy ra nhanh hay chậm.
Chính hành động gia tăng sức ép quân sự của Trung Quốc lên biển
Đông đã làm mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tiến triển mau chóng. Việt Nam
hoàn toàn bất lực khi thuyết phục Trung Quốc chấm dứt những khiêu khích về lãnh
hải trong suốt 5 năm qua từ 2009 đến 2014.
Thêm vào đó , chính sách phá hũy môi
trường nhằm đe dọa an toàn lương thực cho các nước dọc theo sông Mê-Kông của
Trung Quốc đã khiến Việt Nam bất lực khi ảnh huởng của mình chưa đủ để yêu cầu
Trung Quốc thay đổi chính sách. Ngoài ra , những chênh lệnh về cán cân thuơng
mại giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như chính sách hạn chế nhập khẩu và ăn cắp
mẫu mã hàng hóa Việt Nam từ phía Trung Quốc càng làm cho Hà Nội bực bội nhưng
lại bất lực vì không đủ mạnh để kiểm soát.
II. SỨC ÉP QUÂN SỰ CỦA TRUNG QUỐC LÊN BIỂN ĐÔNG
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên toàn cỏi biển Đông làm lãnh hải
của Việt Nam bị thiệt hại nghiêm trọng. Bản đồ trên là vùng lãnh hải thuộc về
Việt Nam Cộng Hòa theo hiệp định Geneve 1954 nhưng nay bị Trung Quốc tuyên bố
là vùng lãnh hải của mình.
Đường màu vàng trên bản đồ là phạm vi lãnh hải mà Việt Nam có chủ
quyền. Đường màu chấm đỏ là đường lãnh hải mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền.
Như vậy bản đồ trên cho thấy toàn bộ lãnh hải của Việt Nam sẽ hoàn toàn thuộc
vào Trung Quốc nếu Việt Nam không phản kháng mạnh mẽ.
Cộng Sản Hà Nội hiện đang kế thừa 29 đảo trên quần đảo Trường Sa
(Spratly Island ) từ VNCH, nhưng để mất 9 đảo trên quần đảo này sau xung đột
hải chiến Việt- Trung năm 1988. Riêng quần đảo Hoàng Sa thì Trung Quốc đã tấn
công chiếm giữ kể từ năm 1974 khi Việt Nam Cộng Hòa đang kiệt quệ vì những đợt
tấn công của Cộng Sản Bắc Việt trong khi đồng minh Hoa Kỳ đang giảm cắt viện
trợ nghiêm trọng.
Danh sách các nước tuyên bố chủ quyền trên hai quần Trường Sa và
Hoàng Sa:
Âm thầm hiện đại hóa quân sự
trong suốt 20 năm kể từ những năm 1980, trong đó có Hải quân, Trung Quốc nay đủ
sức tiến chiếm toàn bộ các đảo còn lại do Việt Nam kiểm soát trên quần Trường
Sa mà Hà Nội không có cách gì cứu vãn.
Cùng ý thức hệ và là chỗ dựa về chính trị, Hà Nội không thể phản
kháng lại Trung Quốc trừ phi Hoa Kỳ đồng ý rộng mở một bàn tay chấp nhận trợ
giúp Hà Nội từ phương tiện quân sự đến áp lực quốc tế để vãng hồi tình thế bi
đát
Về phía Hoa Kỳ, các chiến lược gia tại Bộ Quốc phòng đã khám phá
ra kế hoạch tiệm tiến, lấn chiếm từ từ Biển Đông của Trung Quốc thông qua sự
bất khả kháng và nhu nhược của Hà Nôi nên đã thúc đẩy Tổng thống Clinton nhanh
chóng sang thăm Việt Nam năm 2000 mở cửa cho một tiến trình bình thuờng hóa
quan hệ hai nước để kịp giúp Hà Nội vững tin hơn khi ngăn cản sức bành trướng
về lãnh hải của Trung Quốc.
Sức ép quân sự của Bắc Kinh lên biển Đông không hề giảm mà mỗi lúc
mỗi gia tăng khiến Hà Nội không còn một chon lựa nào khác là ráng nổ lực giải
tỏa những trở ngại về chính trị, trong đó có nhân quyền để có thể đứng sát cánh
với Hoa Kỳ và đồng minh của Hoa Kỳ trong vùng, trong đó có Nhật Bản, Úc và Ấn
Độ để làm thế liên minh nhằm cứu vãng tình thế. Về phần Hoa Kỳ, chính sách
“Nhìn Về châu Á ” của Tổng Thống Obama mở rộng cửa cho Việt Nam tham dự vào
đường lối đối ngoại do Hoa Kỳ chủ xướng- ứng phó trước tình thế hung hãn của
Trung Quốc.
Cho nên, chính sức ép quân sự của Trung Quốc trên biển Đông là
động lực thúc đẩy (the driving force) hai nước Hoa Kỳ và Việt Nam gia tăng hợp
tác về quân sự an ninh quốc phòng.
Kể từ 2003, đã có hơn 14 lần các chiến hạm Hoa Kỳ viếng thăm Việt
Nam, điều khó tượng tượng có thể xảy ra giữa hai nước cựu thù và khác biệt sâu
đậm về ý thức hệ chính trị. Hơn thế nữa, việc chiếc Hàng không Mẫu hạm USS
George Washington viếng thăm Việt Nam vào năm 2010 mở ra một dấu hiệu cho thấy
một tương lai đồng minh lâu dài giữa Hoa Kỳ – Việt Nam về mặt an ninh quốc
phòng cũng như dấu hiệu chuyển huớng trong chính sách đối ngoại của Cộng Sản Hà
Nội.
Đây cũng là bằng chứng cho thấy đảng Cộng Sản Việt Nam đã hết cách chon
lựa mà phải bỏ ý thức hệ, tình đồng chí anh em mà họ hy vọng nhiều ở nơi Trung
Quốc. Xin ghi chú, Cộng Sản Trung Quốc là chổ dựa vô cùng vững chắc cho Cộng
Sản Việt Nam kể từ ngày đầu thành lập cũng như những năm tháng tiến hành chiến
tranh trực diện với Hoa Kỳ trước năm 1975.
Tốc độ hợp tác về quốc phòng giữa hai nước đã tăng tốc không còn
cách gì có thể quay ngược lại sau khi Hoa Kỳ áp lực Trung Quốc thành công khi
Yêu cầu Trung Quốc một cách công khai rút dàn khoang 981 của họ ra khỏi lãnh
hải Việt Nam vào 16-7- 2014. Dàn khoang này tiến vào lãnh hải Việt Nam với một
dàn hải quân hộ tống hùng hậu mà cảnh sát biển cùng lực lượng hải quân Việt Nam
vô phương ngăn cản hay truy đuổi.
Sự việc Hoa Kỳ yêu cầu Việt Nam ngừng mọi hoạt động tiếp liệu cho
Không quân Nga tại cảng Cam Ranh càng cho thấy mức ảnh huởng của Hoa Kỳ lên các
quyết định quốc phòng của Việt Nam ngày càng sâu hơn rõ hơn và sẽ không có
chiều huớng đi ngược lại.
Chuyến đi của thủ tướng Cộng Sản Việt Nam sang Úc nhắm đẩy mạnh
hơn nữa những hợp tác về quốc phòng trong tháng Ba năm nay là hoàn toàn có sự
bật đèn xanh đồng ý hay hậu thuẫn từ Hoa Kỳ. Úc Châu là đồng minh số một thận
cận nhất của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á từ thời đệ nhị thế chiến đến nay.
Các nhà ngoại giao Hoa Kỳ mong đợi chuyến đi thăm Hoa Kỳ của ông
Tổng Bí thư Nguyễn PhúTrọng sẽ công khai hóa nổ lực xoá bỏ dị biệt chính trị để
hợp tác giữa hai nước tiến đến một sự loan báo chính thức trở thành đồng minh
chiến lược lâu dài.
Vì vậy, Trung Quốc chính là nhân tố duy nhất dẫn đến sự xích gần
giữa hai quốc gia Hoa Kỳ -Việt Nam về mặt quốc phòng.
III. AN TOÀN MÔI TRƯỜNG & LƯƠNG THỰC CHÂU THỔ SÔNG MÊ KÔNG
Ngoài những căng thẳng về vấn đề lãnh hải, Việt Nam và Trung Quốc
còn có một xung đột sâu xa không thể khoan nhượng , đó là an toàn về môi trường
và lương thực châu thổ sông Mê Kông. Nông nghiệp gồm hoa trái và lúa gạo cũng
như nghể cá ở đồng bằng sông Mê Kông hay còn gọi là đồng bằng sông Cữu Long
chiếm gần 10 % trong giá trị sản phẫm quốc dân (10% GDP) và đãm bảo an toàn về
lương thực cho cả nước. Việc Trung Quốc xây khoãng 4 đập thũy điện ở thuơng
nguồn con sông này làm nguồn nước hạ lưu đồng bằng song Cữu Long bị cạn kiệt
nghiêm trọng. Ngoài ra, hàng loạt các sinh vật, thủy sản hiếm quý bị tiêu diệt
vì lượng nước sut giãm ở hạ lưu. Nguồn lúa gạo tại đồng bằng sông Cửu Long đãm
bảo an toàn lương thực cho Việt Nam và là thế mạnh xuất khẩu cho Việt Nam giúp
an toàn lương thực cho vùng Đông Nam Á.
Mối bận tâm của Việt Nam cũng là niềm lo lắng của Hoa Kỳ trong nổ
lực giãm thiểu sự suy sụp về môi trường đang xãy ra đồng loạt do thái độ khai
thác bừa bải , cẩu thả của Trung Quốc mà không quan tâm hay có trách nhiệm gì
đến an toàn sinh thái của những quốc gia lân cận trong vùng Đông Nam Á. Nhất là
khi Trung Quốc dự tính xây 14 đập thủy điện trên thuợng nguồn sông Mê Kông sẽ
đặt các quốc gia ở hạ lưu con sông này vào tình trạng chịu đựng thãm hoạ sinh
thái nghiêm trọng dẫn đến đói kém về lương thực.
Vì thế, chính phủ Hoa Kỳ gia tăng nổ lực thành lập diễn đàn tuyên
bố chung cho các nước hạ lưu sông Mê kông ( Lower Mekong Initiative), gồm
Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Hoa Kỳ và Việt Nam để tạo sức mạnh ép buộc
Trung Quốc phải thay đổi chính sách của mình về cách thức sử dung sông Mê Kông.
Đơn giản, Hoa Kỳ muốn nhấn mạnh vấn đề sông Mê kông có tính quốc tế chứ không
phải chỉ là vấn đề nội bộ của Trung Quốc. Lower Mekong Initiative là một diễn
đàn mà Hoa Kỳ lập ra để cho phép các nước liên quan phản ánh những quan cũng
như bày tỏ công khai những bất đồng của mình đối với Trung Quốc về vấn đề sông
Mê Kông . Diễn đàn này được thành thành lập vào năm 2009 trong sự hiện diện của
nữ Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton.
Riêng về phần Việt Nam trong mối quan hệ Việt – Mỹ , cơ quan USAID
( United States Agency of International Development) đã dành một khoảng ngân
quỹ viện trợ 26 triệu rưỡi Mỹ kim kéo dài từ tháng 10 năm 2012 cho đến tháng 10
năm 2017 thông qua chương trình phục hồi môi trường vùng châu thổ sông Hồng và
sông Mê-kông, mà trong đó, vùng đồng bằng sông Mê-kông chiếm gần 80 phần trăm
tổng số ngân quỹ. Ngoại trưởng John Kerry cũng tự mình đã viếng thăm vùng sông
Mê-kông vào 15 tháng 12 năm 2013 nhằm khẳng định lần nữa quyết tâm bảo vệ sông
Mê Kông của Hoa Kỳ trước Trung Quốc .
Cho nên có thể nói, thái độ cố chấp của Trung Quốc trong việc khai
thác thủy điện thượng nguồn sông Mê kông bất chấp an nguy về môi trường và an
toàn lương thưc cho các nước hạ lưu sông Mê-kông càng làm cho Hoa Kỳ thúc đẩy
hợp tác với các nước trong vùng , trong đó có Việt Nam, để tạo sức mạnh quốc tế
chung khi áp lực lên Trung Quốc. Trung Quốc càng cố chấp thì hợp tác giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ càng chặt chẽ hơn mà thôi.
IV. CHÊNH LỆCH VỀ CÁN CÂN THUƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
Thâm hụt mậu dịch của Việt Nam trong cán cân thuơng mại đối với
trung Quốc gia tăng nhanh chóng và Cộng Sản Hà Nội đã hoàn toàn bất lực để kiểm
soát. Tổng trị giá nhấp siêu của Việt Nam từ Trung Quốc đã chiếm khỏang 10%
tổng trị giá sản phẩm quốc dân GDP của Việt Nam.
Sau đây là bản tổng kết tổng trị giá nhập siêu của Việt Nam trong
thuơng mại đối với Trung Quốc:
Năm NHẬP SIÊU
(tỷ Mỹ kim )
2009 11.54
2010 12.7
2011 13.47
2012 16.40
2013 17.5
2014 28.00
( Source: tổng kết data từ Bộ Công Thuơng Việt Nam)
(tỷ Mỹ kim )
2009 11.54
2010 12.7
2011 13.47
2012 16.40
2013 17.5
2014 28.00
( Source: tổng kết data từ Bộ Công Thuơng Việt Nam)
Việc nhập siêu từ Trung Quốc dẫn đến nguồn dự trử ngoại tệ để bình ổn kinh tế của Việt Nam bị thất thoát chảy máu nghiêm trọng. Ngoài ra , giới sản xuất hàng hóa tiêu dùng tại Việt Nam bị lao vào phá sản vì mất hẳn thị trường nội địa cho hàng hóa Trung Quốc. Quan trọng hơn hết , tình trạng nhập siêu từ Trung Quốc sẽ dẫn đến tình trạng Việt Nam bị nợ nần gia tăng, mà chủ nợ chính là Trung Quốc. Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam càng lúc càng lệ thuộc hơn nữa về kinh tế vào Trung Quốc.
Từ đó , hậu thuẫn về kinh tế từ phía Hoa Kỳ sẽ giúp cho Việt Nam
thoát khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc cũng như kích thích mạnh đà tăng trưởng kinh
tế. Các viên chức Cộng Sản Hà nội thông báo mỗi năm có khoảng 8 đến 12 tỷ Mỹ
kim từ kiều bào sống bên Hoa Kỳ gởi về tạo ra một sức kích cầu rất mạnh thúc
đẫy tăng trưởng kinh tế và bình ổn Xã hội , nhất là ở Sài Gòn và các tỉnh phía
nam Việt Nam.
Sau đây là bản tổng kết cán cân thuơng mại Việt- Mỹ:
Như vậy , thặng dư mậu dịch của Việt Nam đối với Hoa Kỳ đã gia
tăng nhanh chóng kể từ năm 2009, vượt qua ngưỡng cữa 20 tỷ Mỹ kim vào năm 2014.
Sự thặng dư mậu dịch này là hy vọng rất lớn cho Việt Nam để đứng vững trước sức
ép về kinh tế từ Trung Quốc, nhất là đủ khả năng duy trì sản xuất , hạn chế gia
tăng thất nghiệp.
Từ đó, việc Việt Nam xích gần hơn tới Hoa Kỳ về kinh tế để làm đối
trọng trước sự lấn ép về kinh tế của Trung Quốc là một điều hiển nhiên không
thể trách khỏi. Việt Nam đang cần Hoa Kỳ để gia tăng phát triển kinh tế. Tốc độ
phát triển kinh tế của Việt Nam đang tỷ lệ thuận với cán cân thuơng mại Việt-
Mỹ sau chuyến đi của tổng thống Clinton sang Việt Nam năm 2000 .
Tỷ lệ thuận này là một bằng chứng cho thấy Hoa Kỳ là một quốc gia
đang trợ giúp chứ không phải lấn hiếp kinh tế Việt Nam như Trung Quốc. Đối với
Hoa Kỳ, thì thâm hụt mậu dịch 20 tỷ Mỹ kim không thấm vào đâu với một nền kinh
tế 16 ngàn tỷ Mỹ kim GDP nhưng với một nước như Việt Nam, 20 tỷ Mỹ kim thặng dư
mậu dịch là khoảng 10 % GDP, tạo ra không biết bao nhiêu công ăn việc làm cho
đất nước và ngoại tệ để dự trử bình ổn xã hội khi cần thiết!
Ngược lại, 28 tỷ Mỹ kim thâm hụt mậu dịch với Trung Quốc là tiềm
ẩn bất ổn về xã hội (do thất nghiệp và phá sản) , lệ thuộc về kinh tế và nợ nần
ngày mỗi nặng gánh lên nền kinh tế quốc dân.
Mặc dù còn nhiều trở ngại ngăn cản Việt Nam tham gia hiệp ước
Trans-Pacific Partnership (TPP )nhưng chắc chắn , với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ,
Việt Nam sẽ tham dự hiệp ước này và hoàn toàn có cơ hội thoát khỏi ảnh huởng
lấn hiếp về kinh tế từ Trung Quốc đang càng ngày càng đẩy Việt Nam lún sâu vào
thâm thụt mậu dịch, nợ nần và bất ổn xã hội
V. KẾT LUẬN
Cộng Sản Việt Nam buộc lòng phải nhích gần tới Hoa Kỳ để tìm kiếm
một sự hậu thuẫn về an ninh quốc phòng, an toàn môi trường-lương thực và an
ninh về kinh tế trước sức ép của Trung Quốc ngày càng gia tăng lên ba mặt này.
Trung Quốc càng hung hãn lấn hiếp về lãnh hải thì càng đẩy Việt
Nam tiến tới quan hệ hợp tác chiến lược quốc với Hoa Kỳ sâu hơn, sớm hơn.
Thái độ vô trách nhiệm của Trung quốc về an ninh môi trường hạ lưu
sông Mê Kông khiến mối an ninh về lương thực bị đe dọa dẫn đến Việt Nam và Hoa
Kỳ đồng thuận trong việc hợp tác vận động thế giới gia tăng sức ép để phản đối
buộc Trung Quốc phải có thái độ nghiêm túc hơn về lãnh vực này.
Việt Nam cần phải nhích gần hơn trong mối quan hệ kinh tế với Hoa
Kỳ nhằm giảm bớt áp lực lấn hiếp về kinh tế từ Trung Quốc đang khiến Việt Nam
lâm vào cảnh thâm hụt mậu dịch năng nề, nợ nần và bất ổn xã hội. Cho nên, Trung
Quốc là nhân tố quyết định cả “chiều sâu, chiều rộng cũng như tốc độ “của mối
quan hệ Việt – Mỹ trên ba phương diện quốc phòng, môi trường và kinh tế.
© Tú Hoa
__._,_.___
No comments:
Post a Comment