Nông Đức Mạnh – Tội ác của một đứa con rơi
Đặng
Chí Hùng
I. Mang họ Nông nhưng là tông họ Hồ:
Nông Đức Mạnh được xem là một trong những Tổng bí thư dốt nát nhất
trong số các lãnh đạo dốt nát cộng sản. Theo cộng sản thì Mạnh xuất phát từ một
gia đình dân tộc Bắc Kạn. Với trình độ y tờ của mình liệu một kẻ chỉ biết bô bô
ở mọi hội nghị một câu quen thuộc “Một
người tốt làm cho một nhà tốt, một nhà tốt làm cho một phường tốt v.v… và
v.v…” thì liệu có thể leo lên chức vị to nhất của đảng độc tài
tại Việt Nam hay không? Câu hỏi này cũng không khó trả lời vì thực chất mẹ của
Mạnh là người dân tộc ít học còn Cha của Mạnh mới là kẻ quyết định con đường
công danh của Mạnh.
Nông Đức Mạnh và bàn tay “chém gió”
Theo thông tin chính thức từ nhà nước cộng sản thì lý lịch của
Nông Đức Mạnh hết sức bất minh, không ghi rõ Mạnh có bố tên gì, mẹ tên gì mà
chỉ ghi chung chung “sinh trong một gia đình nông dân, dân tộc Tày”. Xin xem
toàn văn tiểu sử tóm tắt của Mạnh trên website của đại sứ quán Việt Nam tại
Mông cổ lấy thông tin từ cổng thông tin chính phủ CHXHCNVN để thấy điều này:
“TIỂU SỬ TÓM TẮT Đồng chí NÔNG ĐỨC MẠNH
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Sinh ngày 11/9/1940 tại xã Cường Lợi, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Cạn,
xuất thân trong gia đình nông dân, dân tộc Tày.
Tóm tắt quá trình công tác
1958 -1961: Học viên Trường trung cấp nông lâm Trung ương, Hà
Nội.
1962 – 1963: Công nhân lâm nghiệp, Kỹ thuật viên điều tra rừng Ty
Lâm nghiệp Bắc Cạn.
Vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1963.
1963-1965: Đội phó đội khai thác gỗ Bạch Thông.
1966-1971: Sinh viên Học viện Lâm nghiệp Lê-nin-grát, Liên
Xô.
1972-1973: Phó Ban Thanh tra, Ty Lâm nghiệp tỉnh Bác Thái.
1973-1974: Giám đốc Lâm trường Phú Lương, Bắc Thái.
1974-1976: Học viên Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc.
1976-1980: Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam
tỉnh Bắc Thái, Phó Ty Lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái kiêm Chủ nhiệm Công ty Xây dựng
Lâm nghiệp rồi Trưởng ty Lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái.
1980-1983: Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam
tỉnh Bấc Thái, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Thái.
1984-10/1986: Phó bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt
Nam tỉnh Bắc Thái, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Thái.
11/1986-2/1989: Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt
Nam tỉnh Bắc Thái.
12/1986: Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nan khóa VI.
3/1989: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam.
8/1989: Trưởng ban Dân tộc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam.
1l/1989: Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa VIII, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội
6/1991: Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam.
9/1992: Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa IX.
6/1996: Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam khóa VIII. 9/1997: Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa X.
1/1998: Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII.
4/2001: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng
sản Việt Nam, được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
4/2006: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản
Việt Nam, được tái bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.”
Nguồn: Website Đảng Cộng sản Việt Nam (1)
Qua tiểu sử của Nông Đức Mạnh, chúng ta thấy điều gì? Đó là tại
sao một kẻ có gốc gác là một người mới tốt nghiệp trung cấp nông nghiệp mà có
thể “tiến nhanh, tiến mạnh” lên đến chức Chủ tịch quốc hội rồi Tổng bí thư
nhanh đến thế? Và đây là sự thật về lý lịch của Nông Đức Mạnh – điều đã khiến
Mạnh trở nên quyền thế nhanh chóng trong chế độ cộng sản.
Theo như Nông Đức Mạnh khẳng định, cha mẹ ông ta là ông Nông Văn Lại và
bà Hoàng Thị Nhị.
Nông Đức Mạnh còn nói thêm hàng năm tháng ba âm lịch vào dịp tết thanh minh
luôn về quê để tảo mộ cha mẹ (hai người đều mất sớm), và ông còn có em trai, em
gái ở quê (tuy nhiên không ai xác nhận điều này mà chỉ là do Nông Đức Mạnh
nói). Nông Đức Mạnh luôn bác bỏ tin đồn rằng ông là con của Hồ Chí Minh, và đã
trả lời “Ở Việt
Nam ai cũng là con cháu Bác Hồ” khi được báo chí hỏi về
điều đó. Tạp chí Thế Giới Mới có ghi trong một chú thích rằng mẹ đẻ của Nông
Đức Mạnh là Nông
Thị Trưng. Điều đó có đúng không? Xin trả lời là rất ĐÚNG vì
Nông Đức Mạnh là một con rơi trong vô vàn con rơi của Hồ Chí Minh.
Khi Hồ Chí Minh cướp chính quyền thành công, trở thành người lãnh
tụ chính thức của đảng Cộng Sản Việt Nam, người nữ cán bộ gương mẫu mà Hồ yêu
quý, tức Nông Thị
Ngác, lại được cất chức làm Chánh Án Tòa Án Nhân Dân tỉnh Cao
Bằng… Hồ Chí Minh yêu quý Ngác đến độ đặt cho người nữ cán bộ này một tên nữa
là Nông Thị Trưng,
ý giống như Trưng Trắc, Trưng Nhị vậy. Tin Nông Thị Ngác là ai cũng đã được
người dân trong nước bàn tán. ‘Chú
Thu’ và ‘Cháu
Trưng’ cũng đã được nhắc tới trong các sách tuyên truyền
của cộng sản, nhất là các tác giả Trần
Khuê, Thép
Mới…
Thép Mới kể
lại trong “Năng
Động Hồ Chí Minh” (trang 48) rằng sau 20 năm ngày rời Pác
Bó, ông Hồ trở lại, 1961, lúc này coi như sự nghiệp khá thành công, ông có thời
giờ về thăm lại người cũ, cảnh xưa. Khi vào nhà thăm gia đình bà Ngác, ông Hồ
tiếp xúc với ông Dương
Đại Lâm, người mà trước đây ông Hồ đã gởi gắm Ngác vào gia đình
(không nhắc Ngác đang ở đâu), các cháu vây quanh HCM thân mật… Tác giả còn nhấn
mạnh một trong các cháu đã trở thành ‘thanh niên tuấn tú’ góp phần xây dựng đất
nước.
Cùng sách trên, Thép Mới ghi (trang 43): “Bác trực tiếp hỏi chuyện, nghe kể
về hoàn cảnh gia đình và bản làng đau khổ, rất thương, nhận làm cháu nuôi, đặt
cho bí danh là Trưng, Nông Thị Trưng. Trưng ở với vợ chồng Đại Lâm, tên tục là
Sù, hàng ngày được đến lán Bác một giờ để Bác chỉ bảo…” Như
vậy rất rõ, Nông
Thị Ngác có bí danh là Nông Thị Trưng.
Để chứng minh cho mối quan hệ của bà Ngác với Hồ Chí Minh mà kết
quả của nó là Nông Đức Mạnh tôi xin được trình bày những tài liệu sau đây.
Thứ nhất,
trong “Ho Chi Minh”, tác giả William Duiker – một người thiên tả (thích cộng
sản), trang 575, viết: “In
April 2001, the ralatively unknown government official Nong Duc Manh, widely rumored to be the
illegitimate son of Ho Chi Minh, was elected general secretary of the VCP” (Vietnamese
Communist Party- 14).
Số 14 để người đọc lật ra sau cuốn sách đọc tiếp footnote
14: “Nong Duc Manh
has denied these rumors, but he concedes that his mother, a member of the Tay
ethnic minority, served
as Ho’s servant after
the latter’s return to Vietnam during the early 1940s…”
Tạm Dịch: “Vào
tháng 4, 2001, người vô danh tên Nông Đức Mạnh chính thức nhậm chức trong cơ
quan chính quyền, dư luận xôn xao bàn tán rộng rãi cho rằng Mạnh là con trai
rơi của Hồ Chí Minh, và ông ta đã được chọn làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Nông Đức Mạnh phủ nhận những tin đồn này, nhưng ông ta lại công nhận rằng
mẹ ông, một thành viên của dân tộc thiểu số Tầy, bà là người phục vụ ông Hồ sau khi ông Hồ trở về Việt Nam
vào đầu thập niên 1940.”
Chúng ta cũng biết Nông Đức Mạnh sinh vào đầu thập niên 40. Báo
Time phỏng vấn Mạnh vào 2002 và ghi ông ta được 61 tuổi. Như vậy thì ông Mạnh
phải ra đời vào cuối 1941 hoặc 1942. Sau ngày sách của Duiker xuất bản, 2000,
và cuộc phỏng vấn của báo Time, website
của “Đảng CSVN” đã xóa hoàn toàn tiểu sử của ông Nông Đức Mạnh trước đó ghi
rõ Nông
Đức Mạnh con của “nhà cách mạng Nông Văn Lai và bà Hoàng Thị Nhị”.
Vấn đề đặt ra là tại sao khi có cuốn sách của Duiker và Time phỏng
vấn Nông Đức Mạnh thì tiểu sử phải bị xóa bỏ trong khi Mạnh là người đứng đầu
đảng, việc minh bạch cha mẹ mình trên website của chính phủ có gì sai? Đó chính
là việc minh chứng cho Mạnh chính là con của bà Ngác và Hồ Chí Minh bị cố tình
giấu giếm đi.
Hồ Chí Minh và Nông Thị Trưng (Ngác) – mẹ Nông
Đức Mạnh
Thứ hai,
cũng liên quan đến sự việc Hồ có con với bà Ngác và có con trai, tác giả người
Nga,Mikhail Vasaep trong
cuốn sách được in năm 1986 tại Liên Xô có tên “Mảnh trời riêng của lãnh tụ” –
một học giả, nhà nghiên cứu thuộc phân viện lịch sử đảng cộng sản Liên Xô cũ
trong trang 372 “Cũng
có những nguồn tin đáng tin cậy từ KGB cho biết có một người con trai của Hồ Chí Minh
với người phụ nữ tên Nông Thị Trưng được nuôi nấng bởi một gia
đình người dân tộc thiểu số tại Cao Bằng…”
Như vậy có thể khẳng định thêm thông tin Hồ Chí Minh có con với bà
Nông Thi Trưng (Ngác) là hoàn toàn có thật. Và người con đó chính là Nông Đức
Mạnh với những thông tin được nêu ra từ W. Duiker.
Thứ ba,
khi đề cập đến vấn đề quan hệ với bà Nông Thị Trưng thì tác giả Constatin Kostadinov đã
giới thiệu ở trên trong cuốn “Những
người con của lãnh tụ” xuất bản năm 1984 tại Ba Lan có viết
tại trang 92 “Thật ra
trong một nghiên cứu cho thấy chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có một mà có
những hai con trai nhưng
đến nay chưa biết số phận chính trị có giống như người con mang tên Nguyễn Tất Trung hay không…”
Chúng ta nên nhớ vào thời điểm cuốn sách của ông Kostadinov ấn
hành thì Nông Đức Mạnh chưa có những dấu ấn trên chính trường (năm 1984) nên
nhận xét của ông Kostadinov rõ ràng là hợp lý. Nhưng cũng cho thấy về đứa con
của Hồ Chí Minh không chỉ một mà là 2 con trai.Một là Nguyễn Tất Trung còn một chính là Nông Đức Mạnh.
Hồ Chí Minh trong một bữa ăn tại Pắc bó – Cao
Bằng
Thứ tư,
chính tác giả Hà
Cẩn trong một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm
2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi nhà
Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang tại trang 135 “Bi kịch tình ái của Hồ Chủ Tịch
không chỉ dừng lại ở những
bà vợ không được thừa nhận mà còn kể cả 2 người con trai của Chủ Tịch….”
Đến đây ta có thể khẳng định tác giả Hà Cẩn đã ám chỉ về Nguyễn Tất Trung và Nông Đức Mạnh là
con của ông Hồ Chí Minh. Nhưng dù cho có là ai đi nữa thì tác giả cũng khẳng
định Hồ Chí Minh có nhiều con và có nhiều vợ không được thừa nhận. Và trong đó
có Nông Đức Mạnh.
Thứ năm,
hãy đọc bài viết của tác giả Lê Văn Tâm như sau:
“Nông Thị Trưng (6 tháng 12 năm 1920 – 26 tháng 1 năm 2003) là một
phụ nữ hoạt động cách mạng, theo Việt Minh trong phong trào chống Pháp ở Việt
Nam giữa thế kỷ 20. Bà từng giữ chức Chánh án Tòa án nhân dân Tỉnh Cao
Bằng.
Bà có tên thật là Nông Thị Bày, có tài liệu ghi Nông Thị Ngát, quê
ở huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Theo hồi ký của thiếu tướng Lê Quảng Ba, Nông
Thị Trưng là đội viên du kích trẻ tuổi nhất trong đội du kích đầu tiên của tỉnh
Cao Bằng, do Lê Thiết Hùng chỉ huy.Trong vòng tám tháng vào năm 1941-1942, bà
đã làm giao liên cho “Già Thu”, bí danh của Hồ Chí Minh lúc đó. Tên Trưng của
bà do “Già Thu” đặt, có ý muốn bà noi gương Trưng Trắc, Trưng Nhị. Cùng với các
đảng viên và nhân dân Hà Quảng có điều kiện ở gần Hồ Chí Minh, bà đã được ông
trực tiếp dạy văn hóa.Bà được Hồ Chí Minh kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương
ngày 25 tháng 12 năm 1941. Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên của Cao Bằng
sớm tham gia cách mạng, và trở thành một trong những cán bộ, đảng viên cốt cán
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tờ báo Xuân Phụ Nữ năm Đinh Sửu 1997 xuất bản trong nước một bài
viết có tựa đề “Cô Học Trò Nhỏ của Bác Hồ” được tác giả Thiên Lý viết theo lời
kể của chính Nông Thị Trưng có đoạn: “Tháng 7 năm 1941, được tin (chính quyền)
châu Hà Quảng đưa lính cơ tới bắt, ngay đêm ấy tôi trốn ra rừng, rồi được Châu
ủy đem qua Bình Mãng (Trung Quốc) lánh nạn tại nhà một đảng viên Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Một hôm đồng chí Lê Quảng Ba và Vũ Anh đến đón tôi từ Trung Quốc về
Pắc Bó gặp Bác.
Về Pắc Bó đã nửa đêm, anh Đại Lâm người giữ trạm đầu nguồn đưa
ngay chúng tôi đi gặp “ông Ké”. Lội ngược suối càng đi nước càng sâu, khi đến
thác thứ ba, anh Đại Lâm thổi sáo, từ trên thác có thang tre thả xuống. Trèo
thang lên, thấy một cái lán dựng ngay trên bờ suối. Trong lán có ông cụ ngồi
đọc sách. Tôi chắp tay “Cháu chào cụ ạ”. Ông cụ nhìn lên hai mắt rất sáng, ân
cần bảo: “Cháu đến rồi à, cháu ngồi xuống đây nói chuyện. ” Tôi nhìn xuống sàn,
thấy toàn cây to bằng bắp chân. Cụ bảo hai lần tôi mới dám ngồi. Cụ tỉ mỉ hỏi
gia cảnh, rồi khuyên tôi: “Từ nay cháu đã có một gia đình lớn là gia đình cách
mạng, đừng luyến tiếc gia đình nhỏ nữa. Cháu cặm cụi làm ăn cũng không đủ để
nộp sưu thuế đâu. Mình lấy lại được nước rồi từng gia đình sẽ được đàng hoàng.
Từ nay ai hỏi thì cháu nói mình là cháu chú Thu, tên Trưng”. Bác đặt tên ấy là
muốn tôi noi theo gương bà Trưng.”
Nông Thị Trưng đã học tập lý luận cách mạng cùng “Già Thu” trong
khoảng 8 tháng.
“Từ đấy tôi ở lại lán anh Đại Lâm, mỗi ngày vào lán của Bác một
giờ để học tập. Bác dạy cho tôi từ chuyện thế giới, chuyện cộng sản chủ nghĩa
đến cả những cách ứng xử thường ngày như “Đừng làm một việc gì có thể khiến dân
mất lòng tin. Mượn một cái kim, một con dao, một buổi là phải đem trả. Trong ba
lô nếu có màn, phải để ở ngoài cửa, hỏi xem chủ nhà có bằng lòng mới đem vào.
Cháu là nữ, trước bàn thờ có cái giường để các cụ ngồi ăn cỗ, cháu không được
ngồi…”. Tám tháng được Bác chỉ dạy tôi học được hơn cả mấy chục năm học lý luận
tập trung sau này”.
Đoạn hồi ký trên còn được đăng tại Tạp chí Công nghiệp
Khi biết Nông Thị Trưng là người ham học, hàng ngày lấy than và
que để viết chữ và vẽ hình, Hồ Chí Minh đã gửi cho bà một số vở, bút viết, với
bài thơ mà sau này được đưa vào sách giáo khoa Việt Nam:
Vở này ta tặng cháu yêu ta
Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là
Mong cháu ra công mà học tập
Mai sau cháu giúp nước non nhà
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Nguyên thì bài thơ được viết năm
1944 và có tên “Tặng cháu Nông Thị Trưng”.
Hồ Chí Minh cũng tặng Nông Thị Trưng quyển Binh pháp Tôn Tử.
Gia đình
Theo tạp chí Thế Giới Mới, Nông Thị Trưng là mẹ đẻ của Nông Đức
Mạnh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001.Sau khi bà qua đời, báo
Nhân Dân có đăng tin buồn, lấy từ TTXVN. Thông báo này cũng từng công bố trên
website của báo, ở địa chỉ, nhưng hiện nay liên kết đến địa chỉ này đã không
còn tồn tại”. (2)
Ảnh chụp bài báo về Nông Thị Trưng – “Cô học trò
nhỏ của Bác Hồ”
Tài liệu nói trên chính là thêm một minh chứng Nông Đức Mạnh là
con của Hồ Chí Minh.
Thứ sáu,
khi Nông Đức Mạnh được chọn làm Tổng Bí Thư cộng sản thì Đại Sứ Australia là bàSue Boyd –
người nổi tiếng là bộc trực, đã hỏi thẳng Mạnh có phải là con của Hồ Chí Minh
không? Nông Đức Manh đã trả lời “Ở
Việt Nam ai cũng đều là con của Bác”. Câu trả lời vô thưởng vô phạt
này có chủ đích lập lờ để không phải xác nhận sự thật mà cũng không bị mang
tiếng là chối bỏ một sự thật.
Sau đó cũng gần một năm trên tạp chí Time, ấn bản Châu Á phát hành
ngày 23/01/2002 tại Hồng Kông- qua cuộc phỏng vấn của ký giả Kay Johnson –
thì Nông Đức Manh lại một lần nữa lên tiếng về thân thế mình, bác bỏ tin đồn
trước đây cho rằng ông ta là con rơi của Hồ và một phụ nữ dân tộc là Nông Thị
Xuân. Nông Đức Mạnh nói: “Tôi
phải lập lại và xác nhận rằng điều đó không đúng sự thật. Tôi có thể nói tên
của cha mẹ tôi nhưng họ đã chết… Nếu có ai nói tôi giống HCM, tôi nghĩ có nhiều
người trông giống người”. Người phỏng vấn hình như vẫn chưa hài
lòng với câu trả lời nên lại hỏi: “Nên
ông không liên hệ gì với HCM?”. Nông Đức Manh lặp lại: “Tất cả mọi người VN là con của Bác
Hồ. Tôi nghĩ toàn thể dân Việt xem HCM là cha tinh thần của họ và tôi cũng thế”.
Tuy nhiên, chính William
Duiker đã tường thuật lại, trong cuốn sách viết về Hồ Chí
Minh (tái bản lần thứ hai) chuyện Nông Đức Mạnh đã tiết lộ với tác giả
rằng “Mẹ tôi, thành
viên của dân tộc thiểu số, đã phục dịch cho ông Hồ vào những năm đầu tiên của
thập niên 1940…”
Và đó chính là minh chứng kết hợp với các tài liệu bên trên cho
thấy Nông Đức Mạnh chính là con của Hồ Chí Minh. Đó cũng là lý do vì sao một
người dân tộc ít học và cũng bất tài như Nông Đức Mạnh leo lên những chức vụ cao
cấp nhất của cộng sản Việt Nam một các nhanh chóng.
II. Cha nào con nấy
Hồ Chí Minh được coi là một kẻ độc tài có nhiều tội ác với dân tộc
Việt Nam và bản chất đạo đức đồi bại như giết vợ, bỏ con… (Xin xem “Những sự thật không thể chối bỏ –
Phần 15”). Và đứa con Nông Đức Manh của Hồ Chí Minh có đạo đức
cũng khá giống cha mình.
Nông Đức Mạnh khi vợ còn sống vẫn tằng tịu với một phụ nữ đang có
chồng là Đỗ Thị
Huyền Tâm và khi mà ông ta chưa mãn tang vợ đã cưới ngay
người phụ nữ chưa ly dị chồng này: “Cuối
năm 2010, ngay khi Mẹ tôi lâm bệnh nặng, bà Tâm tìm cách tiếp cận bố tôi, dùng
các thủ đoạn lấy lòng những người xung quanh Bố tôi và đặc biệt là lái xe riêng
của Bố tôi là ông Vũ Văn Sáng (công tác tại Phòng xe, Văn phòng TW Đảng), thông
qua lái xe để nắm các thông tin về gia đình tôi. Từ đó, bà Tâm tạo được vỏ bọc
cảm thông chia sẻ với Bố tôi, giả tạo tình cảm để lừa gạt và lợi dụng uy tín
của Bố tôi.Tại thời điểm đầu năm 2011, bà Tâm đã có chồng nhưng đã đặt vấn đề
tìm hiểu Bố tôi để tiến đến hôn nhân. Chồng bà Tâm là ông Phạm Tuấn Linh – Đại
tá, Phó Phòng Kế hoạch, Cục Quân nhu – Tổng cục Hậu cần, Bộ Quốc phòng. Tuy
nhiên, cho đến ngày 30/6/2011 bà Tâm mới ly dị chồng.” – Trích
thư tố cáo của Nông Bích Liên – con gái của Nông Đức Mạnh gửi báo Người Cao
Tuổi (3)
Chuyện con gái ông Mạnh tố cáo và đổ tội cho bà Tâm “quyến rũ” ông
Mạnh cũng là lẽ thường vì con gái một ông tổng bí không thể làm quá mất mặt
cha. Nếu nói tội bà Tâm quyến rũ ông Mạnh thì cũng không hẳn đúng. Mà cái quan
trọng đó là ông Mạnh với cương vị tổng bí thư đảng “quang vinh, đạo đức” tại
sao đang còn vợ mà đi tằng tịu với phụ nữ đã có chồng con, rồi khi chưa mãn
tang vợ đã vồ lấy ngay người đàn bà này. Đừng đổ hết lỗi cho bà Tâm vì nếu ông
Mạnh không đồng ý và “thích” thì có đến 3 đời bà Tâm cũng chẳng dám và chẳng
làm gì được ông Mạnh. Điều quan trọng hơn là bà Đỗ Thị Huyền Tâm lại là “bồ”
của chính con trai ông Mạnh – Nông Quốc Tuấn. Như vậy là bố cướp bồ của con
trai hay nói cách cụ thể hơn là một dạng đảo điên trong luân thường đạo đức.
Cha con Nông Đức Mạnh – Nông Quốc Tuấn
Thông tin từ Vietinfo cho biết: “Người vợ mới của Nông Đức Mạnh là nữ Đại biểu Quốc hội
Đỗ Thị Huyền Tâm sinh 17/10/1966, quê tại Ninh Xá, Bắc Ninh là đại biểu Quốc
hội khóa 12 và khóa 13 kém 3 tuổi so với ông Nông Quốc Tuấn con trai cả của
Nông Đức Mạnh và kém Tổng Nông hơn 26 tuổi. Ngoài ra bà Tâm còn được biết là
Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Minh Tâm tiền thân là Công ty TNHH Minh
Tâm được thành lập từ năm 2002.
Cách đây khoảng hơn 11 năm, khoảng tháng 2 năm 2000, Nông Quốc
Tuấn mới xuất hiện trên chính trường với chức vụ Phó Chủ tịch Thường trực Trung
ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Đó là thời gian sau 12 năm ngồi chơi
xơi nước ở Hội Thanh niên Việt nam kể từ sau khi kết thúc cuộc đời là “công
nhân xuất khẩu lao động”, do bị cha đẻ là ông Nông Đức Manh, khi đó là Bí thư
Tỉnh ủy Bắc Thái bắt buộc phải đi để cai nghiện ma túy tại Singwitz, thuộc CHDC
Đức cũ từ năm 1981 – 1987. Thời gian này (từ năm 2000 – 2003) Nông Quốc Tuấn có
quan hệ tình cảm với Đỗ Thị Huyền Tâm – vợ mới của cha kiểu già nhân ngãi, non
vợ chồng. Mặc dù lúc đó cô Đỗ Thị Huyền Tâm đã từng có gia đình sau nhiều lần
kết hôn và li hôn và tin còn cho biết số vốn điều lệ 5 tỷ đồng ban đầu thành
lập công ty TNHH Minh Tâm từ năm 2002 tiền thân của Công ty Cổ phần Tập đoàn
Minh Tâm là do Nông Quốc Tuấn cho bà Tâm vay trên danh nghĩa cho mượn bao giờ
có thì trả.
Bạn bè của Nông Quốc Tuấn cho biết, cô Đỗ Thị Huyền Tâm thường xuyên
qua lại với gia đình cụ Tổng Nông ở biệt thự 66B Phan Đình Phùng, phường Quán
Thánh, quận Ba Đình, Hà nội vốn dành riêng cho các cán bộ lãnh đạo cao cấp với
tư cách là cô em kết nghĩa của Nông Quốc Tuấn. Lâu dần trở thành con gái nuôi
của Nông Đức Mạnh. Và khi mà bà Lý Thị Bang – phu nhân Tổng bí thư Nông Đức
Mạnh – do tuổi cao, sức yếu đã dược cụ Tổng Nông cho về ở quê và qua đời ngày
25.10.2010 tại xã Lương Hạ, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. Rồi chính Nông Đức Mạnh
đã cưới cô con gái nuôi thành vợ mới sau này.” (4)
Ngôi nhà Nông Đức Mạnh cướp đất của dân nay được
vợ mới đem thế chấp ngân hàng
Qua đây chúng ta thấy điều gì? Đó là cha con Hồ Chí Minh – Nông
Đức Mạnh khá giống nhau ở khoản tình duyên và sắc dục bậy bạ. Đây cũng là một
gợi ý để có thể thêm khẳng định Nông Đức Mạnh thừa hưởng gien của Hồ Chí Minh
trong chuyện đời. Nhưng còn chuyện chính trị và quốc gia thì sao? Xin trả lời
là cũng “cha nào con nấy” mà thôi.
Xin bạn đọc xuống dưới để theo dõi luận điểm này.
III. Bất tài, độc tài và bán nước
Để chứng minh những cái bất tài, độc tài và bán nước của Nông Đức
Mạnh chúng ta nhìn nhận những dẫn chứng dưới dây để thấy rõ điều đó.
Thứ nhất,
Trung tướng Nguyễn Hòa (sinh năm 1927) là một tướng lĩnh cao cấp của Quân đội
nhân dân Việt Nam, ông là tư lệnh quân đoàn 1 trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm
1975 và là Tổng cục trưởng Tổng cục Dầu Khí đầu tiên (năm 1980). Nguyên ủy viên
trung ương đảng khóa V, VI, VII (5).
Ảnh: Hội CCB Tập đoàn Dầu Khí và Ban liên lạc Sư
đoàn 5 chụp ảnh lưu niệm cùng Trung tướng Nguyễn Hòa và vợ (6)
Chính ông tướng cộng sản này đã tố cáo Nông Đức Mạnh trong bức thư
của ông như sau:
“… Nhiệm kỳ qua, đồng chí Nông Đức Mạnh cũng đã có một số cố gắng.
Nhưng xem xét nghiêm túc về một người đứng đầu Đảng, Nhà nước ta thì đồng chí
Mạnh có nhiều lỗi, có nhiều sai phạm và sai phạm nghiêm trọng.
Một số ví dụ:
– Là Tổng Bí thư, khi đồng chí Đào Duy Quát bàn về vụ Năm Cam, Bùi
Quốc Huy, Trần Mai Hạnh thì đồng chí Mạnh trả lời rằng hãy khoan, hãy chờ đã.
Nhưng khi đồng chí Quát và đồng chí Hồng Vinh phổ biến lại cho các báo chí, báo
chí phản ứng thì đồng chí Mạnh chối và nói rằng Tổng bí thư không bằng lòng, để
cho đồng chí Hồng Vinh chịu trận.
– Khi báo chí đưa ra vụ Năm Cam v.v… thì đồng chí Mạnh (đứng đầu
Ban Bí thư) triệu tập cuộc họp với Tổng biên tập các báo uốn nắn răn đe (Điều
này cả nước và báo chí đều biết). Đến lúc xử xong Năm Cam chịu tội tử hình, Bùi
Quốc Huy và Trần Mai Hạnh ở tù thì các cơ quan nội chính lại phải biểu dương
báo chí.
– Là người nắm chức vụ cao nhất trong Đảng nhưng đồng chí Mạnh đưa
con của đồng chí Mạnh không đủ tâm, tài làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên,
và có ý định đưa làm Bí thư thứ nhất Đoàn để cơ cấu vào Trung ương, vừa mưu cầu
danh vọng, vừa có dụng ý gây dựng lực lượng của mình lâu dài trong Đảng.
– Đối với Nguyễn Chí Vịnh, mặc dù một số đông tướng lĩnh và lão
thành cách mạng đòi kiểm tra các tội phạm của Vịnh xung quanh các vụ Sáu Sứ,
T4, trước thềm Đại hội 9, đồng chí Mạnh vẫn bao che, chỉ giao cho Đảng ủy quân
sự Trung ương kiểm tra, không giao cho Ủy ban kiểm tra Trung ương và các cơ
quan chức năng kiểm tra.
Vì Đảng ủy quân sự Trung ương điều tra thì đã có ông
Phạm Văn Trà bao che rồi. Khi có thư từ yêu cầu kiểm tra Nguyễn Chí Vịnh gửi
đại hội toàn quân và Ban chấp hành Trung ương thì đồng chí Mạnh cho qua. Đặc
biệt Đảng ủy quân sự Trung ương (đồng chí Mạnh là Bí thư) vẫn đề nghị lên Bộ
Chính trị đề bạt Nguyễn Chí Vịnh làm Thứ tưởng Bộ Quốc phòng, nhờ sự phản ứng
của lão thành cách mạng, tướng lĩnh quân đội và cán bộ, Đảng ủy quân sự Trung
ương mới rút lại đề nghị. Một điều đặc biệt nữa là: đồng chí Mạnh là Trưởng
tiểu ban nhân sự đại hội 10 đã đưa ra thảo luận tại Bộ Chính trị việc giới
thiệu vào Trung ương Nguyễn Chí Vinh, một kẻ ăn cắp có hệ thống từ khi đi học ở
Học viện Kỹ thuật quân sự, một kẻ chưa được kiểm tra nhiều vấn đề mà nhiễu
tướng lĩnh, lão thành cách mạng yêu cầu.
Trong cuộc họp Bộ Chính trị đó, nghe
nói 10 đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị đồng ý (trong đó có đồng chí Mạnh), 4 đồng
chí không đồng ý. Như vậy, đồng chí Mạnh đã giới thiệu, đã bỏ phiếu cho Nguyễn
Chí Vịnh một kẻ ăn cắp trước đây, một kẻ tòng phạm phá Đảng thì thử hỏi đồng
chí Mạnh là người như thế nào? May thay, Ban chấp hành Trung ương đã sáng suốt,
số đông đã gạt Nguyễn Chí Vịnh. Nếu Nguyễn Chí Vịnh, do sự bao che của đồng chí
Mạnh được vào Trung ương, cứ thế mà leo mãi, làm chủ nhiệm Tổng cục Chính trị,
rồi làm Tổng bí thư như ông Lê Đức Anh và ông Đỗ Mười đề xướng thì Đảng ta sẽ
bị phá hoại nát, cán bộ trung kiên sẽ bị vu không và sát hại.
Là Tổng bí thư, đồng chí Mạnh đã bao che cho ông Đào Đình Bình,
trong khi dư luận bất bình với những hành động mua chức, mua quyền, mua uy tín
của ông Bình thì nhân dịp giới thiệu ông Bình làm Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận
tải đồng chí Mạnh vẫn kiên trì giới thiệu ông Bình làm Bộ trưởng Bộ Giao thông
Vận tải mà ngày nay, cả Quốc hội và người dân đều đã thấy hậu quả, đã thấy ông
Bình và những kẻ thân cận như Bùi Tiến Dũng, Nguyễn Việt Tiến như thế nào?
Là Tổng bí thư, Trưởng tiểu ban nhân sự Đại hội 10, đồng chí Mạnh
đã giới thiệu những kẻ như Bùi Tiến Dũng, Tổng giám đốc PMU 18 thuộc Bộ Giao
thông vận tải và Nguyễn Việt Tiến, Thứ trưởng Thường trực Bộ Giao thông vận tải
vào Trung ương. Như vậy con người đồng chí Mạnh là thế nào? Có thể làm một
người đứng đầu Đảng và Nhà nước không?
– Là trưởng Tiểu ban nhân sự Đại hội 10, đồng chí Mạnh còn giới
thiệu một số người như ông Bắc Sơn, một người tay sai của ông Lê Đức Anh, hoạt
động vô nguyên tắc, được đồng chí Mạnh định đưa làm Phó Ban Tổ chức Trung ương
nhưng bị phản đối, sau đó đưa về làm Phó bí thư trực Tỉnh ủy Thái Nguyên và
được Bộ Chính trị và Tiểu ban nhân sự (Nông Đức Mạnh đứng đầu) giới thiệu vào
tỉnh ủy và giới thiệu vào Trung ương Đảng.
Đồng chí Mạnh giới thiệu Phan Trung Kiên, một người đã bị Quân khu
7 phát hiện về nhiều tội, trong đó có tội tham nhũng. Ủy ban Kiểm tra Trung
ương đã báo cáo với Bộ Chính trị nhưng đồng chí Mạnh, và đôi đồng chí khác
trong Bộ Chính trị gạt đi, cho qua, bao che cho Phan Trung Kiên. Trên thực tế,
đồng chí Mạnh đã không chế Ủy ban Kiểm tra Trung ương, buộc Ủy ban Kiểm tra
Trung ương phải theo quan điểm sai trái của đồng chí Mạnh. Có thể còn một số ví
dụ khác.
– Đối với vụ Sáu Sứ, T4. Cơ quan chức năng đã báo cáo và cung cấp
nhiều tài liệu cho đồng chí Mạnh. Nhưng khi thảo luận vụ này từ năm 2002, đồng
chí Mạnh đã gạt vụ Sáu Sứ ra ngoài, đồng chí Mạnh đã không làm triệt để vụ T4,
mà vụ T4 là do cả Cục 12, Cục 11, Viện 70 làm dưới sự chỉ đạo của Vũ Chính.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Lê Khả Phiêu, đồng chí Đỗ Quang Thắng và một
số đồng chí lão thành cách mạng đã có ý kiến không phải một lần.
Trong thư tố cáo của Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, Thượng tướng
Nguyễn Nam Khánh đã nói rõ từ năm 1996 Vũ Chính đã vu cáo chính trị đồng chí Võ
Nguyên Giáp được sự chỉ đạo của CIA, năm 1996 phái cấp tiến theo Mỹ đã vào Viện
108 đã nắm đồng chí Phạm Song nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế, đã có ý đầu độc đồng
chí Lê Đức Anh v.v… Nhưng đồng chí Mạnh phớt lờ, lại chỉ thị cho Ủy ban Kiểm tra
Trung ương kiểm điểm đồng chí Nam Khánh. Vụ đặc tình giả T4 do Tổng cục 2 dựng
lên xuất hiện từ giữa năm 1997 đến giữa năm 1999. Vậy các tin vu khống ấy xuất
hiện từ năm 1996, là do Vũ Chính chỉ đạo được bộ máy giúp việc của Tổng cục 2
(Cục 12, Cục 11, Viện 70…) thực hiện, sao đồng chí Mạnh lại bao che? Thư đồng
chí Nguyễn Nam Khánh tố cáo các điều sai trái trong bản báo cáo Bộ Quốc phòng
trước Hội nghị Đảng ủy quân sự Trung ương mở rộng, thì đồng chí Mạnh bao che
cho rằng đó chỉ là một cuộc giao ban.
Ai cũng biết trong Quân đội, giao ban là Ban trực trước bàn giao
lại tình hình cho Ban trực sau (hoặc hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng…) được
tiến hành trong một thời gian ngắn. Làm gì có sự giao ban trong toàn quân, họp
hết các đầu mối của toàn quân lại để giao ban, trong cả một ngày. Thực chất
cuộc Hội nghị toàn quân đó rồi các cuộc hội nghị Quân khu Quân đoàn kế tiếp có
mời cả Chủ tịch Hội Cựu chiến binh là lợi dụng “Ngọn cờ chống Mỹ” để đánh vào
đồng chí Nguyễn Nam Khánh, để đưa ra một dư luận đồng chí Nguyễn Nam Khánh có
liên hệ với phái cấp tiến để răn đe lão thành (Đề nghị xem kỹ văn bản Báo cáo
của Bộ Quốc phòng do Tổng cục 2 chuẩn bị vào báo cáo).
Đồng chí Mạnh, chủ trị Bộ Chính trị và Ban Bí thư lại kết luận
rằng: Vũ Chính chỉ có khuyết điểm là quản lý cán bộ không chặt chẽ. Thực chất
Vũ Chính là người chỉ đạo vụ T4, dùng đặc tình giả để vu khống chính trị gần 30
đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, chia rẽ phá hoại Đảng, huy động bộ máy
Tổng cục 2 (gồm Cục 11, Cục 12, Viện 70…) làm việc đó. Nguyễn Chí Vịnh đã là
cán bộ Cục 12 trước đây, tháng 2/1995 phụ trách Cục phó Cục 2, tháng 5/1995
được bổ nhiệm Cục phó Cục 12, rồi làm Cục trưởng Cục 12, Tổng Cục phó, Tổng cục
trưởng Tổng cục 2…
Tóm lại, qua thực tế việc làm, đồng chí Mạnh đã không xứng đáng, không
đủ tiêu chuẩn là Ủy viên Trung ương, càng không đủ tiêu chuẩn và uy tín là
người đứng đầu Đảng và Nhà nước.
– Đồng chí Mạnh đã “ăn theo” công lao của các đồng chí khác và vơ
vào mình. Công phát triển kinh tế là công của đồng chí Khải. Công làm luật ở
Quốc hội và bước đầu thực hiện quyền giám sát của Quốc hội là công của đồng chí
An, công về nội chính, tư pháp của Công an, các cơ quan nội chính, của đồng chí
Trương Vĩnh Trọng và đồng chí Trần Đức Lương… Còn ngoại giao thì đồng chí Mạnh
đi Pháp, đi Nga, đi Nhật đều đạt kết quả thấp, nhạt.
Cán bộ, có cả Ủy viên Trung ương nói: đồng chí Mạnh chỉ ăn theo,
vô tích sự.
Trong khi đó, việc chính của đồng chí Mạnh là xây dựng Đảng, thì
trải qua một nhiệm kỳ, xây dựng chỉnh đốn Đảng đạt được kết quả thấp, chưa đạt
yêu cầu cơ bản.
– Lãnh đạo chống tham nhũng là một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng,
nhưng không lãnh đạo thực hiện được chống tham nhũng có hiệu quả. Tham nhũng
càng ngày càng nghiêm trọng. Ai chịu trách nhiệm? Đồng chí Mạnh phải chịu trách
nhiệm chính. Đồng chí Mạnh cứ nói mãi: từng chi bộ, từng cơ sở phải xem xét.
Tất nhiên rồi, nhưng trước hết phải hiểu cơ sở là ai? Phải xem từ Bộ Chính trị,
các Ban Cán sự Đảng ở cấp Trung ương, các ban Thường vụ cấp tỉnh và tương
đương.
Chống quan liêu cũng vậy? Ai quan liêu? Đồng chí Mạnh và một số
đồng chí trong Bộ Chính trị là những quan to và quan liêu của nước ta. Đi thăm
các địa phương thì huy động đón rước, tốn tiền của, tốn thì giờ, chụp ảnh để
“đánh bóng”; chỉ nghe báo cáo, chỉ nói mấy điều ai cũng biết, ai cũng nói được,
những vấn đề phức tạp và xấu không phát hiện được. Đến khi đã xảy ra rồi mới
bắt đầu yêu cầu báo cáo…
– Đạo đức xã hội ngày càng xuống cấp.
– Các vấn đề tồn đọng trong Đảng thì tránh né, bao che, không giải
quyết được.
– Trong Bộ Chính trị thì nể nang, xoa dịu, lấy lòng nhau để rồi
phô trương là đoàn kết, là dân chủ.
– Thực tế là không lắng nghe tiếng nói của nhân dân, của đảng
viên, kể cả của một số đồng chí lão thành cách mạng có tâm huyết. Ngược lại tìm
cách trù dập, răn đe người phát hiện tội phạm với cái cớ cho là “làm lộ bí
mật”.
– Là Tổng bí thư nhưng không gương mẫu chấp hành điều lệ, vi phạm
nghiêm trọng nguyên tắc của Đảng, như nguyên tắc về quyền của đảng viên.
– Đầu óc xơ cứng, chỉ đọc những bài viết sẵn, nói những lời nói
công thức, không sáng tạo, không năng động, không giải quyết những vụ việc nổi
cộm, không thể đổi mới đúng hướng và toàn diện…”
(Đọc nguyên văn bức thư tại: (7)
Đọc qua bức thư của tướng Nguyễn Hòa chúng ta thấy điều gì? Đó là
Nông Đức Mạnh rất bất tài và vô dụng. Đặc biệt đó là việc đã dung túng cho
Nguyễn Chí Vịnh thành lập tổng cục 2 mà thực chất là cánh tay nối dài của Trung
Nam Hải góp phần bán nước cho Trung cộng nhanh chóng hơn. Bạn đọc có thể đọc
thêm bức thư của tướng cộng sản Nguyễn Nam Khánh để thấy rõ hơn điều này (8)
Thứ hai,
hãy cùng đọc bức thư sau đây của một gia đình là nạn nhân cộng sản đang sống
tại Việt Nam để chúng ta thấy sau năm 1975 đảng cộng sản đã cướp những gì của
nhân dân:
“Kính Gửi: Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh Đảng CSVN
Bộ Chính Trị Trung Ương (TW) đảng CSVN
Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội do đảng CSVN cầm quyền.
Chúng tôi có tên dưới đây:
Huỳnh Ngọc Cảnh, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp AMATA Đồng
Nai.
Nguyễn Tấn Hoành, đại diện một số anh chị em Khu Công nghiệp Điện Bàn Quảng
Nam.
Nguyễn Tấn Dung, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp Biên Hòa
II.
Dương Thái Phong, Huỳnh Tiến, Trương Long, Vũ Hà, Trần Tá, Võ Hải, Nguyễn thị Tuyết, thuộc khu công nghiệp Tân Bình và khu chế xuất Vĩnh Lộc.
Hoàng Anh Tuấn, Công Ty Giày da Gia Định, quốc lộ 13 Thủ Đức, Tp. Saigon.
Thưa quý Ngài lãnh đạo Bộ Chính Trị TW đảng CSVN
Ngày trước miền Nam 1975, gia đình chúng tôi chưa được cách mạng
giải phóng. Cha mẹ chúng tôi có nhà, có đất làm ăn khấm khá chưa biết làm thuê
làm mướn là gì. Trong thời đó những nhà thương gia Ấn Độ, kỹ sư người Nhật, Hàn
Quốc vào miền Nam làm thuê và mua bán. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào người dân Việt
Nam. Sau năm 1975, miền Nam được cách mạng giải phóng khỏi ách nô lệ, đảng hô
hào nâng đỡ và đấu tranh cho hai giai cấp công nhân và nông dân. Chính lá cờ
đảng CSVN thể hiện biểu tượng búa, liềm. Sự thật có phải như vậy không? Thưa,
sự thật rất phũ phàng! Sau khi chiếm được miền Nam là cải tạo công thương
nghiệp, đánh tư sản mại bản thì gia đình chúng tôi bị mất nhà, mất đất. Trong
khi chúng tôi có tiền dư thóc để, thì chúng tôi bị lấy nhà và bị đuổi đi vùng
sâu nước độc để khai phá đất hoang làm ăn.
Do những cơn sốt rét vàng da, có
những gia đình chết phân nửa, có những gia đình phải chết hết. Khi trở về thành
phố thì nhà cao cửa rộng, ruộng vườn của mình thì bị cán bộ đảng viên thu. Điều
này chúng tôi có nói sai đâu. Những villa nhà lầu hiện nay là nhà của đảng
viên, thì thử hỏi cha ông của mấy ông này mua nhà đất từ thời nào để lại cho
mấy ông đảng viên này, nếu không phải cướp của chúng tôi thì từ đâu mà có. Cuộc
đời chúng tôi còn sống thì vẫn còn bị cướp. Đời Cha tôi bị cướp, đời tôi cũng
bị cướp. Những gia đình chúng tôi lên vùng kinh tế mới khai hoang được vài ba
mẫu đất làm ăn, cuộc sống chưa ổn định thì trò cướp bóc lại theo đuổi theo
người dân nghèo chúng tôi, kế đến là chiêu thức kêu gọi đầu tư rước ngoại bang
vào, lại tiếp tục lấy đất của chúng tôi. Bằng nhiều chiêu thức gạt gẫm lừa bịp
gian manh quỷ quyệt, trù dập vu khống chụp mũ.” (9)
Chúng ta thấy gì trong bức thư trên? Đó là bức thư tố cáo những kẻ
cướp là cộng sản Việt Nam. Không những đời cha ông mà cho đến đời nay vẫn bị
cướp. Bản thân bức thư này gửi cho Nông Đức Mạnh – lúc đó làm tổng bí thư và
Mạnh đã làm ngơ nó. Chứng tỏ Mạnh cũng bất tài và độc tài cùng với khả năng
cướp bóc như tất cả lãnh đạo cộng sản mà thôi.
Nông Đức Mạnh và cái cùi
đầu “không thể sâu hơn nữa” mà sau đó tư Sang đã noi theo.
Thứ ba,
từ một anh Trung cấp Lâm Nghiệp, Mạnh leo lên chức Tỉnh ủy viên, Phó Ty Lâm
nghiệp, phó chủ tịch, phó tỉnh ủy kiêm chủ tịch rồi bí thư tỉnh ủy Bắc Thái.
Năm 1989, Mạnh về Hà Nội làm Trưởng ban Dân tộc Trung ương đảng kiêm Phó Chủ
tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Năm 1991, Mạnh vào Bộ Chính trị và năm 1992
thành Chủ tịch Quốc hội.
Chín năm sau, năm 2001, giữa lúc các phe phái kèn cựa nhau, không
ai chịu ai, chúng hướng đến giải pháp thứ ba là đưa tên “đội phá sơn lâm” không
có thực quyền vào vị trí cao nhất đảng, trở thành “đảng trưởng phá sơn hà”! Từ
một tên “công nhân lâm nghiệp” trình độ trung cấp đến một vị trí cao nhất nước,
cuộc đời Mạnh cứ ngỡ như chuyện thần tiên. Đó là do Nông Đức Manh Mạnh là giọt
máu của Hồ Chí Minh. Trở thành người mang danh vị cao nhất của đảng cộng sản,
từ nghề phá sơn lâm Mạnh chuyển sang chuyển sang nghề phá sơn hà. Chỉ đơn giản
nhắc lại hành trình bán nước của Mạnh trong việc cho Tàu vào phá nát vùng chiến
lược Tây Nguyên theo tin tức của “báo đảng”: “Từ ngày 30/5- 2/6/2008, đồng chí Nông Đức Mạnh thăm
hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.
Xin bạn đọc chú ý đến thông tin ngắn gọn mà báo đảng trích dẫn về
cuộc họp này: “Theo
Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc bao gồm 9 điểm, hai bên bày tỏ hài lòng
trước những thành quả to lớn đã đạt được trong quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp
tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước trong những năm qua; khẳng định tình hữu
nghị truyền thống Việt-Trung là tài sản quý báu của hai Đảng, hai Nhà nước và
nhân dân hai nước, cần hết sức gìn giữ và không ngừng phát huy mạnh mẽ.
Hai bên bày tỏ sẽ tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau trên các
lĩnh vực, tăng cường tin cậy toàn diện lẫn nhau, đi sâu hợp tác cùng có lợi,
thúc đẩy cùng nhau phát triển, thúc đẩy thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở mỗi nước. Hai bên tăng cường phối hợp trong các công việc quốc tế và
khu vực, cùng nhau thúc đẩy xây dựng hòa bình lâu dài, cùng phồn vinh ở châu Á
và trên thế giới.
Hai bên nhấn mạnh sẽ tiếp tục duy trì truyền thống tốt đẹp tiếp
xúc mật thiết giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước; tuyên bố thiết lập
đường dây nóng giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam – Trung Quốc… Hai bên đồng ý phối
hợp chặt chẽ hơn nữa, tích cực giải quyết các vấn đề còn lại và đẩy nhanh tiến
độ công tác, đảm bảo thực hiện đúng thời hạn mục tiêu hoàn thành toàn bộ công
tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới trên đất liền trong năm 2008 và
sớm ký văn bản mới về quy chế quản lý biên giới nhằm xây dựng đường biên giới
trên đất liền giữa hai nước thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp
tác…”.
Nội dung trên trích từ bài báo của Đại sứ quán cộng sản tại Brazil
(10).
Nông Đức Mạnh chỉ đạo ký văn kiện bán nước năm
2008 cùng Hồ Cẩm Đào
Nửa năm sau, mãi đến ngày 9.2.2009, Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam
mới công bố Tuyên bố chung giữa Mạnh và Hồ Cẩm Đào trong chuyến đi năm 2008.
Lý do của sự chậm trễ này là một điều khoản nhỏ mà người dân có
thể xem như một hành động bán nước: cho Trung cộng khai thác bauxite tại Tây
Nguyên. Nghĩa là biết chuyện mình làm là sai nhưng Mạnh vẫn lén lút ký. Lén lút
ký nhưng Mạnh biết là không thể giấu mãi vì sớm muộn gì Tàu cũng vào Tây
nguyên, nên phải công bố. Và để công bố, Mạnh đã phải bỏ ra nửa năm chuẩn bị
cho việc bịt miệng và răn đe báo chí, đưa Nguyễn Tấn Dũng ra dọa: khai thác
bauxite là “chủ
trương lớn của đảng và nhà nước”.
Lần đầu tiên danh từ bôxít xuất hiện là ngày 3.12.2001 trong “Tuyên bố chung Việt Nam – Trung
Quốc nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh”cụ
thể là trong điểm thứ 6:
“6- Hai bên xác định trong thế kỷ mới cần tiếp tục tăng cường và
mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại, khoa học-kỹ thuật và các lĩnh vực khác
giữa hai nước theo phương châm bình đẳng, cùng có lợi, chú trọng hiệu quả, bổ
sung ưu thế cho nhau, hình thức đa dạng, cùng nhau phát triển; tích cực khuyến
khích và ủng hộ các doanh nghiệp hai bên khai thác thêm thị trường hàng hóa của
hai nước, tăng cường đầu tư và hợp tác, mở rộng quy mô hợp tác kinh tế và kỹ
thuật, thực hiện các dự án hợp tác đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội thiết
thực.
Nhân dịp này, hai bên đã ký Hiệp định khung giữa Chính phủ nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi và Hiệp định
hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ; và nhất trí sẽ tích cực thúc
đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xít nhôm Đắc Nông.
Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng Trung Quốc trở thành thành viên Tổ
chức thương mại thế giới. Trung Quốc tích cực ủng hộ Việt Nam sớm gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới.” – Xem toàn văn tại website của Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ: (11).
Tháng 11.2006, Hồ Cẩm Đào sang Việt Nam chuyến nữa. Lần này thông
báo viết: “Từng bước
cải thiện cơ cấu mậu dịch, cố gắng thực hiện phát triển cân bằng và tăng trưởng
bền vững thương mại hai chiều. Tích cực ủng hộ và thúc đẩy doanh nghiệp hai
nước hợp tác lâu dài và cùng có lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng,
công nghiệp chế tạo, khai thác nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản
và các lĩnh vực quan trọng khác. Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn
như bô-xít Đắc Nông…” (12).
Qua đây chúng ta thấy điều gì? Đó là Nông Đức Mạnh đã bán nước cho
Trung cộng thông qua dự án Bô Xít Tây Nguyên. Đó là bằng chứng không thể chối
cãi của kẻ đứng đầu đảng độc tài cộng sản.
Thứ tư,
theo một tài liệu được tiết lộ bởi Wikileaks thì Vụ Bauxit Tây Nguyên, Nông Đức
Mạnh nhận 300 triệu USD – Nguyễn Tấn Dũng 150 triệu USD là có thật: “Những chuyển ngân cho gia đình Thủ
Tướng Nguyền Tấn Dũng chỉ bắt đầu vào cuối năm 2006 và đến tháng 6 năm 2009 thì
tổng số cũng đã lên khoảng gần 150 triệu đô la. Kể từ cuối năm 2001 đã có những
giao dịch chuyển ngân hàng chục triệu đô la từ Trung Quốc sang các tài khoản
của gia đình Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh ở Thụy Sĩ và ở Cayman Islands. Vào thời
điểm của điện văn này là tháng 6 năm 2009 thì tổng số đã chuyển ngân lên tới
gần 300 triệu đô la…
Theo tin từ một thân hữu báo chí ở Norway (Na Uy), một điện văn
trong số 250,000 mà WikiLeaks lấy được từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và đã giao cho
tờ báo buổi chiều lớn nhất Na Uy là tờ Aftenposten thì có một điện văn liên
quan về Việt Nam nói đến dự án khai thác bô-xít nhôm ở Tây Nguyên.
Nội dung điện văn chính yếu là yêu cầu Bộ Tài Chính Hoa Kỳ giúp
điều tra và xác minh một số giao dịch ngân hàng quốc tế. Cụ thể, theo điện văn
này thì một nguồn tin trong giới ngân hàng Việt Nam cho biết kể từ cuối năm
2001 đã có những giao dịch chuyển ngân hàng chục triệu đô la từ Trung Quốc sang
các tài khoản của gia đình Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh ở Thụy Sĩ và ở Cayman
Islands. Vào thời điểm của điện văn này là tháng 6 năm 2009 thì tổng số đã
chuyển ngân lên tới gần 300 triệu đô la.
Cũng trong điện văn này, nguồn tin từ ngân hàng Việt Nam cho biết
những chuyển ngân cho gia đình Thủ Tướng Nguyền Tấn Dũng chỉ bắt đầu vào cuối
năm 2006 và đến tháng 6 năm 2009 thì tổng số cũng đã lên khoảng gần 150 triệu
đô la. Các chuyển ngân trong phần của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng thì không đề
cập đến ngân hàng nước nào”. (13).
Mặc dù chưa kiểm chứng được bằng văn bản công khai của Wikileaks
nhưng việc đàn áp biểu tình chống Trung cộng(Trong đó có chống khai thác Boxit
Tây Nguyên), lặng im xem các ý kiến phản đối của nhiều quan chức như Đặng Hùng Võ, nhóm 72 và
nhiều tổ chức, cá nhân khác của cộng sản Việt Nam có thể xem là bằng chứng về
việc cộng sản nhận tiền và cho giặc Tầu vào làm boxit tại Việt Nam. Một minh
chứng đặc biệt cho việc này là TS
Cù Huy Hà Vũđã vào tù vì việc chống lại chủ trương cho Trung
cộng khai thác Boxit Tây Nguyên. Người ta nếu không nhận tiền bán nước thì
không thể bỏ tù một tiến sỹ Luật, con của một đại công thần cộng sản vì một lý
do lãng nhách nào khác.
Thứ năm,
sự bất tài và phá đảng, bán nước của Nông Đức Mạnh còn được RFA tổng hợp trên
một bài báo có phỏng vấn nhiều người trong đó có quan chức cộng sản và nhà báo
Bùi Tín – một cựu cộng sản như sau: “Ông
Bùi Tín kể: Lá thư của ông Giáp được rất nhiều vị tướng, từ ông Chu Huy Mân đến
một số vị thiếu tướng, đặc biệt ông Nguyễn Nam Khánh hết sức ủng hộ. Do đó
trước Đại hội 10, năm 2005, Ông Nông Đức Mạnh bị buộc phải tổ chức ra một ban,
gọi là Ban Kiểm tra liên ngành đặc biệt, gồm đại diện của: Tòa án nhân dân Tối
cao, Viện Kiểm sát Tối cao, Bộ Tư pháp, Ban Bảo vệ Trung ương, Cục Bảo vệ Quân
đội, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính,… lên đến hơn 20 người.
Ban Kiểm
tra liên ngành đã làm việc và đã có một báo cáo- mà tôi được biết là dày đến 70
trang – hoàn thành trước Đại hội 10. Trước khi Đại hội 10 họp thì ông Tổng bí
thư Nông Đức Mạnh cùng với Bộ Chính trị lúc đó có một sáng kiến là ỉm báo cáo
này đi. Họ cho là báo cáo này nguy hiểm quá. Nếu trong Đảng và nhân dân được
biết thì có thể tạo ra sự đảo lộn rất lớn về chính trị. Ông ấy viện cớ là nếu phổ
biến, trung ương mà biết, đại hội mà biết thì gia đình, bạn bè họ đều biết thì
khó có thể giữ được bí mật. Cho nên ông Nông Đức Mạnh mới thuyết phục Bộ Chính
trị, thuyết phục Ban Chấp hành Trung ương trước Đại hội 10 là không phổ biến
báo cáo tuyệt mật đó. Ông ấy yêu cầu là do sự ổn định của chế độ, ổn định của
Đảng, coi như Bộ Chính trị khóa trước đã xem và coi như đã giải quyết xong
xuôi. Hủy báo cáo này đi, coi như báo cáo này không có.” (14).
Cha con độc tài
Thứ sáu,
trong thời kỳ của mình Nông Đức Mạnh cũng là một kẻ độc tài phá dân chủ. Hàng
loạt tên tuổi lớn đấu tranh cho tự do dân chủ bị Nông Đức Mạnh cùng Võ Văn Kiệt
và sau này là Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng đàn áp hoặc cho vào tù như: Tạ
Phong Tần, Nguyễn Văn Hải – Điếu Cày, đàn áp Khối 8406 đấu tranh ôn hòa cho dân
chủ tại Việt Nam… Như vậy Mạnh chính là một kẻ thù của dân chủ và tự do tại
Việt Nam. Mạnh cũng giống như các lãnh đạo cộng sản khác rất bất tài nhưng độc
ác và độc tài.
Chính Nông Đức Mạnh đã chỉ đạo ra “Nghị quyết 36/CP” ngày
26/3/2004 của Bộ chính trị cộng sản để gọi kẻ cựu thù là khúc ruột ngàn dặm,
một bộ phận không thể tách rời. Đến nay ai cũng biết đó là nghị quyết vừa để
rút ruột những người Việt tị nạn cộng sản. Vừa để cho phép đánh phá phong trào
tự do thông qua chiêu bài “hòa hợp, hòa giải”. (15)
Vua
NÔNG
IV. Kết Luận
Một đứa con rơi của Hồ Chí Minh nên đã nhanh chóng từ một kẻ thất
học leo dễ dàng lên ngai vua để tham nhũng và vơ vét tài sản của nhân dân.
Chính Nông Đức Mạnh cũng là kẻ kéo thêm dân tộc Việt vào vòng xoáy nô lệ cho
Trung cộng mà cha ông ta là Hồ Chí Minh đã chỉ đạo cho các tầng lớp lãnh đạo
cộng sản sau này. Chế độ cộng sản luôn sản sinh ra những ký sinh trùng đục
khoét, bán nước và hại dân như Nông Đức Mạnh. Cần nhìn thẳng vào sự thật lịch
sử để thấy cộng sản là không thể sửa chữa mà chỉ có thể gạt bỏ. Đó chính là một
Việt Nam tươi sáng tương lại khi không còn ách thống trị của băng đảng cộng sản
bạo quyền.
Đặng Chí Hùng
__._,_.___
No comments:
Post a Comment