Mệnh Trời?
Phùng Nguyễn
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (trái) và Tổng bí thư Đảng Cộng
sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.
Chủ
nhật 22 tháng 11 là ngày phát tang nhà văn Phùng Nguyễn. Nhân dịp này VOA Tiếng
Việt xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả một di cảo của nhà văn vừa tạ
thế như một lời vĩnh biệt của ông với bạn đọc, bằng hữu cùng những người ngưỡng
mộ ông. Đây là blog cuối cùng của ông, nhưng chúng tôi tin rằng những lý tưởng
và giá trị nhân bản mà ông và các thi văn hữu của ông bảo vệ và cổ xúy qua cột
blog do ông chủ xướng sẽ không bao giờ bị mai một, cho dù “Mệnh Trời” có như
thế nào đi nữa.
Hai ngày viếng thăm Việt Nam ở cấp độ quốc gia của Tập Cận Bình đã
trôi qua, nhưng dư âm của nó thì phải còn khá lâu mới chìm xuống. Nhìn chung,
đây là một sự kiện chính trị rất êm thấm nếu tính đến những “khác biệt” chưa
được giải quyết thỏa đáng giữa hai quốc gia, nổi bật nhất là những tranh chấp
lãnh hải ở biển Đông. Ngoài một vài cuộc biểu tình nhỏ nhanh chóng bị dập tắt
một cách khá tàn bạo bởi lực lượng công an của nhà nước, những tiếng ồn ào còn
lại đến từ 21 phát đại bác và những tràng pháo tay giòn giã của đại biểu Quốc
hội dành cho thượng khách quốc gia Tập Cận Bình và phu nhân.
Không ai đủ ngây thơ để tin rằng Tập Cận Bình đã bỏ thì giờ quí
báu của mình đến thăm Việt Nam chỉ để… phát chẩn (gồm chút đỉnh tiền bạc và vài
câu thơ Đường) và rao giảng về tình cảm chính quyền và nhân dân Trung Hoa dành
cho Việt Nam. Đa số quan sát viên tin rằng Tập Cận Bình đến Việt Nam để gây áp
lực với đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam (CSVN) ở nhiều lãnh vực, trong đó
quan trọng nhất có thể là thành phần nhân sự chóp bu của đảng CSVN trong nhiệm
kỳ tới và cung cách ứng xử của Việt Nam về những xung đột quyền lợi ở biển
Đông. Chúng ta không biết chắc những thỏa thuận ngầm nào đã được ký kết, nhưng
dựa trên những sự việc xảy ra kể từ hội nghị Thành Đô (tháng 9 năm 1990), có
rất ít lý do để cho rằng Tập Cận Bình đã ra về với hai bàn tay trắng. Bởi vì
tập đoàn lãnh đạo CSVN không quen nói “không” với thiên triều. Theo sử gia Tạ Chí
Đại Trường (TCĐT), một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng hòa (VNCH), sự “ngoan ngoãn”
của các nhà lãnh đạo Việt Nam không chỉ đơn giản đến từ quan hệ đàn anh đàn em
giữa hai đảng cầm quyền mà còn là sự kế thừa từ quan hệ lịch sử văn hóa giữa
hai nước, vốn có nguồn gốc tự ngàn xưa.
*
Hồi cuối tháng 7 năm nay (2015), tôi có cơ hội trao đổi với sử gia
Tạ Chí Đại Trường (TCĐT). Tôi gửi hai câu hỏi qua email để nhờ ông giải đáp.
Nguyên văn hai câu hỏi như sau:
1. Các yếu tố tạo nên tâm lý thần phục thiên triều của các vương
triều Việt Nam trong lịch sử?
2. Đảng Cộng sản Việt Nam có mang tâm lý thần phục Bắc Kinh hay không, và tại sao?
2. Đảng Cộng sản Việt Nam có mang tâm lý thần phục Bắc Kinh hay không, và tại sao?
Mặc dù sức khỏe bắt đầu suy sụp từ nhiều tháng trước đó, sử gia
TCĐT đã cố gắng hồi đáp khá nhanh, cũng qua phương tiện email. Trước hết, TCĐT
cho rằng hai câu hỏi “níu kéo” nhau “vì cũng chỉ là chuyện quan hệ Việt-Trung
mà thôi”. Ông xác nhận tâm lý thần phục Trung Hoa là hoàn toàn có thật, và tâm
lý này mang nặng tính lịch sử và văn hóa. Về mặt địa lý, hai nước kề cận nhau thì
chắc chắn sẽ xảy ra xung đột, và theo lẽ thường, “thằng nhỏ phải thua thằng
lớn”. Đối với nước nhỏ, đánh nhau là chuyện bất đắc dĩ, ngay cả khi thắng trận,
giành lại được ngôi vị thì vẫn phải xưng thần để cảm ơn nước lớn đã không… đánh
tiếp và đã phong chức cho mình. Điều này xảy ra nhiều lần trong lịch sử vẻ vang
dựng nước và giữ nước của dân đất Việt, “lâu ngày thành thói, có chuyện tranh giành
trong nước, bị thua thì kéo nhau qua Tàu nhờ phân xử, như họ Trần cầu viện Minh
đánh Hồ Quý Li, Trịnh Lê cầu Minh đánh Mạc, Lê Chiêu Thống, v.v…”. Theo TCĐT,
chính là vì vậy mà cái thế “nước nhỏ” càng lúc càng thấp thỏi, phải chịu đựng
một thứ tâm thức Phiên thuộc, kéo dài thành một thứ ông gọi là “Hội chứng Phiên
thuộc”.
Sử gia TCĐT cho biết thêm cái hội chứng phiên thuộc còn có gốc rễ
sâu xa từ áp lực nặng nề của văn hóa Hán. Theo ông, “các nho sĩ làm quan được
là nhờ chữ Hán, sống trong khung trời Hán học nên có lúc tưởng mình là người
phương Bắc, không được thì cũng ráng nghĩ làm sao cho có dạng phương Bắc”. Ông
dẫn chứng: “Quyển Toàn thư dịch ra tiếng
Việt, ví dụ có chữ ‘nước ta’ thật ra trong bản văn gốc nó là ‘ngã Trung Quốc nhân’(1).
Sách triều Nguyễn không xưng là dân Việt mà xưng là ‘dân Hán’, còn người Tàu là
‘Đường nhân’”.
Liên kết tâm lý phiên thuộc này với giới lãnh đạo CSVN thuộc nhiều
thời kỳ, TCĐT nhận xét: “Cái tâm lí [phiên thuộc], kiến thức đó âm ỉ trong phần
lớn đám cộng sản ngoài Bắc khiến họ thấy thân thiện một cách tự nhiên khi nhờ
cậy [Trung Quốc] từ những năm 1950. Cú xung đột 1979 vì Tàu chặn âm mưu làm bá
chủ Đông Dương của nhóm Lê Duẩn kiêu ngạo chiến thắng, nhưng chiến tranh biên
giới, Kampuchia làm các anh cũng ê mình, lớp người nối tiếp tất nhiên không có
dũng khí của cha anh nên không những phải chịu Tàu lấn lướt mà tâm thức phiên
thuộc trỗi dậy nên có lời phân trần chính thức của nhà chức trách Đảng ‘Từ xưa
ta cũng phải xưng thần’”.
*
Cái hội chứng phiên thuộc này được hăng hái kế thừa bởi các lãnh
tụ CSVN rất sớm. Có thể một phần của cái cảm giác “thân thuộc” họ dành cho đất
nước Trung Hoa đến từ thực tế là hầu hết các lãnh tụ tiền phong của đảng CSVN
đã sinh sống và hoạt động ở đây ngay từ những năm 1930. Hội nghị thống nhất các
tổ chức CSVN do Nguyễn Ái Quốc triệu tập và Đại hội Đại biểu Toàn quốc đầu tiên
đã diễn ra ở Hong Kong và Macao thuộc lãnh thổ Trung Quốc chứ không phải ở Việt
Nam. Vào đầu những năm 1950, hội chứng Phiên thuộc dưới một dạng thức mới, một
tôn ti mới, “đàn anh đàn em”, ngày càng rõ nét với sự “ngoan ngoãn” của tập
đoàn lãnh đạo CSVN trong việc thực hiện chương trình Cải Cách Ruộng Đất theo
chỉ thị của cố vấn Trung Quốc một cách sít sao. Vào năm 1958, công hàm mà nhiều
người cho rằng mang tính bán nước của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho thấy tâm lý
lệ thuộc tự nguyện của đám chóp bu CSVN đã lên đến cao độ. Điều này tiếp tục
vào năm 1974, khi hải quân Trung Quốc sát hại 74 thủy thủ VNCH và chiếm trọn
quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Hà nội đã không hề mở miệng phản đối. Không
những vậy, theo nhà báo Bùi Tín, cựu Đại tá Quân đội Nhân dân, cựu Phó tổng
biên tập nhật báo Nhân dân, “đồng chí” Lê Đức Thọ đã trấn an mọi người:
“Hãy yên tâm, Hoàng Sa trong tay các đồng chí Trung Quốc còn hơn là trong tay
ngụy quyền tay sai của đế quốc Mỹ”.
Làm thế nào mà một người dân Việt Nam bình thường có thể yên tâm
giao trứng cho ác? Nhiều năm trước khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, một người
lính VNCH khác, học giả Phạm Việt Châu, bút danh của cố Trung tá Phạm Đức Lợi,
đã lên tiếng cảnh báo không chỉ Việt Nam mà toàn thể Đông Nam Á về mối họa
Trung Quốc trong chuỗi bài viết “Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh” đăng
nhiều kỳ trên tạp chí Bách khoa (Sài gòn)
trong những năm 1969 – 1974. Một cách sáng suốt, tác giả chỉ ra rằng “nhân dân
Đông Nam Á không có vấn đề Trung Cộng riêng rẽ mà chỉ có vấn đề Tàu. Tàu thì
lúc nào cũng chỉ là Tàu, và cái mưu đồ theo đuổi tận diệt bằng cách đồng hoá
các dân tộc nhỏ yếu xung quanh (dưới hình thức này hay hình thức khác) từ xưa
đến nay cũng vẫn thế”.
Xung đột biên giới Tây Nam với Campuchia vào nửa sau những năm
1970 dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc do Trung Quốc phát động vào năm
1979 với tuyên bố xấc xược của Đặng Tiểu Bình “dạy cho [đàn em] Việt Nam một
bài học”. Đây thật ra là cơ hội rất tốt để CSVN gỡ cái tròng băng đảng anh em
vô sản quốc tế ra khỏi đầu mình. Cũng chỉ được một số năm, cho đến khi hải quân
Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Trường sa và sát hại 64 chiến sĩ Việt Nam vào
năm 1988. Phản ứng của Chính phủ Việt Nam đối với sự kiện quan trọng này, nhìn
ở góc độ bao dung nhất, được cho là vô cùng yếu ớt. Không bao lâu sau đó, nhiều
văn kiện quan trọng (vẫn còn nằm trong vòng bí mật sau một phần tư thế kỷ) được
ký kết giữa lãnh đạo hai nước tại hội nghị Thành Đô vào tháng 9 năm 1990. Điều
đáng lưu ý là vị trưởng lão cố vấn cho phái đoàn CSVN không ai khác hơn là cựu
thủ tướng Phạm Văn Đồng, người đã ký công hàm 1958 thừa nhận chủ quyền của TQ
trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách mau mắn! Như vậy, sau một thập kỷ
tương đối độc lập, giới chóp bu CSVN lại quay về thần phục thiên triều, không
phải vì nhu cầu ích nước lợi dân mà chính vì sự sống còn của đảng CSVN ngay vào
thời điểm hệ thống cộng sản ở Đông Âu đang trên đà sụp đổ. Đây chỉ là một trong
số không ít lần đảng CSVN đặt quyền lợi của mình lên trên quyền lợi của Tổ quốc
và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Đúng như sử gia TCĐT nhận xét, “quyền lợi
lớn quá nên không thể để mất đảng…”.
*
Từ sau hội nghị Thành Đô, có nhiều dấu hiệu cho thấy sự nhượng bộ,
đôi khi tự nguyện, của chính quyền Việt Nam trong một số lãnh vực. Hiệp ước
Biên giới (trên đất liền) năm 1999 vẫn tiếp tục là điều được dư luận nhắc nhở
mỗi khi quan hệ Việt-Trung được mang ra thảo luận. Trong khi phe thân chính
quyền khăng khăng cho rằng đây là một hiệp ước công bằng, bài học địa lý quen
thuộc của nhiều thế hệ học sinh Nam Bắc vốn luôn luôn có câu “Nước Việt Nam hình
cong như chữ S, kéo dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu” đã không còn đúng với
thực tế! Ngoài ra, Việt Nam thường tỏ ra dè dặt một cách thái quá khi phải đối
đầu với Trung Quốc, tránh né đến mức tối đa việc buộc Trung Quốc phải nhận
trách nhiệm trong việc thay đổi hệ sinh thái sông Mekong, ảnh hưởng vô cùng
tiêu cực lên đời sống hàng chục triệu dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Gần
đây, có những bằng chứng cho thấy Ủy ban Sông Mekong do chính
quyền lập ra đã sản xuất một báo cáo mà kết quả đi ngược lại các công trình
nghiên cứu quốc tế liên hệ về hậu quả nghiêm trọng do việc xây cất các con đập
ở thượng nguồn sông Mekong (thuộc lãnh Thổ Trung Quốc).
Về hiểm họa này, từ hơn 15 năm trước, nhà văn, Bác sĩ quân y
(VNCH) Ngô Thế Vinh, đã lên tiếng báo động với các “tiểu thuyết dữ kiện” Cửu
Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng (xuất bản lần đầu năm 2000)
và Mekong, Dòng Sông Nghẽn mạch (xuất bản
lần đầu năm 2007) cùng nhiều bài biên khảo, tiểu luận liên quan đến hệ sinh
thái sông Mekong mà ông cho ra đời khá thường xuyên. Gần đây nhất là các bài
viết “Năm Nay 2015 Không Có Mùa Nước Nổi”
và “Thoi Thóp Trái Tim Biển Hồ – Miền Tây Đau
Thắt Ngực” để chỉ ra cái hiểm họa mà ông và các thân hữu trong Nhóm
bạn Cửu Long lên tiếng báo động từ lâu nay đã trở thành một tai họa
có thật đang giáng xuống đầu người dân vùng châu thổ sông Cửu Long (Việt Nam)
và vùng biển Hồ Tonle Sap (Campuchia). Điều đáng chú ý là bài viết “Thoi Thóp
Trái Tim Biển Hồ – Miền Tây Đau Thắt Ngực” chỉ ra sự ngoan cố của Hun Sen, đương
kim Thủ tướng Campuchia, người vẫn khăng khăng bào chữa cho Trung Quốc trong
khi bằng chứng các con đập thượng nguồn ở Trung Quốc là thủ phạm gây ra tình
trạng khô kiệt ở vùng Biển Hồ là điều không thể chối cãi. Xem ra về mặt cúc
cung tận tụy với thiên triều, đảng CSVN nay đã có một đối thủ đáng gờm.
*
Không ít người cho rằng lần viếng thăm Việt Nam vừa qua của Tập
Cận Bình là một cơ hội rất tốt cho chính quyền Việt Nam gửi đến người cầm đầu
Trung Quốc một thông điệp rõ ràng về “dáng đứng Việt Nam” trong quan hệ đối
ngoại, đặc biệt trong vấn đề tranh chấp lãnh hải ở biển Đông. Chỉ trong ít ngày
trước cuộc thăm viếng, một số biến cố thuận lợi cho Việt Nam liên tiếp diễn ra.
Ngày 27 tháng 10, 2015, khu trục hạm Lassen của Mỹ xâm nhập vùng “12 hải lý”
của đảo nhân tạo Subi thuộc quần đảo Trường Sa nhằm phủ nhận “chủ quyền” mà
Trung Quốc ngang ngược tuyên bố trước đó. Sau đó ít hôm là vụ Philipines kiện
Trung Quốc về chủ quyền trên biển Đông được Tòa án quốc tế đặt ở Hà Lan nhận
thụ lý. Kế đến, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật thăm Cam Ranh, đề nghị tập trận
chung, v.v… Tuy vậy, dựa trên
cách ứng xử của nhà cầm quyền chung quanh lần viếng thăm của Chủ tịch Tập Cận
Bình, không có dấu hiệu nào cho thấy giới lãnh đạo CSVN đã tận dụng những biến
chuyển thuận lợi này để mạnh dạn đương đầu với áp lực của vị khách đến từ
phương Bắc. Theo thiển ý, hành động đàn áp những người biểu tình chống bành
trướng Bắc Kinh không chỉ tô đậm thêm hình ảnh tiêu cực của chính quyền Việt
Nam về mặt nhân quyền trong mắt giới quan sát quốc tế mà còn là điều vô cùng
thất sách, gây bất lợi cho công cuộc tranh đấu giành lại chủ quyền biển đảo.
Nếu buộc phải né tránh việc công khai thách đố Tập Cận Bình về chủ quyền các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì tâm lý Phiên thuộc hay vì một lý do nào khác,
Việt Nam vẫn có thể lợi dụng các cuộc biểu tình này để gián tiếp bày tỏ vị trí
của chính quyền và tâm tư của nhân dân Việt Nam đối với cuộc tranh chấp lãnh
thổ đang xảy ra giữa hai quốc gia. Bằng cách dập tắt những cuộc biểu tình,
chính quyền Việt Nam đã không chỉ vùi dập tiếng nói chính đáng của người dân mà
còn tự làm suy yếu tư thế đàm phán của chính mình.
*
Người cộng sản, kiêu ngạo một cách vô căn cứ, luôn cho rằng họ
xứng đáng hơn bất cứ ai hết để cai trị đất nước và nhân dân Việt Nam. Những tuyên
bố theo kiểu “còn đảng còn mình” hay “mất đảng mất đảo” cho thấy đối với họ
việc đảng này giành độc quyền lãnh đạo đất nước trong gần ba phần tư thế kỷ là
chuyện… trời cho, là mệnh Trời.
Mệnh Trời hay mệnh con Trời?
P.N.
11.08.2015
11.08.2015
Ghi chú:
1.
Về cụm từ “ngã Trung
Quốc nhân”, sử gia TCĐT phụ chú là ông “không nhớ rõ [một cách] chính xác”.
*Các
bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm
hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment