Với anh Đại
Hán phải “KÍNH nhi VIỄN chi”, tiếp ông Cận Bình phải hiểu lẽ Cận và Viễn
Hà Sĩ Phu
1.
Coi chừng trở thành cánh quân thứ hai của giặc bành trướng
Nhân dân Việt Nam, mà đại biểu là những người yêu nước, tử tế,
thức tỉnh và dám nói đã bộc lộ thái độ đối với ông Tập Cận Bình trong chuyến thăm
Việt Nam lần này, mà những lời tuyên bố , những bài
viết và những tấm hình như dưới đây có thể lấy làm ví dụ.
Nguồn ảnh: Anh Ba Sàm
Ta rất quý những tiếng nói từ lương tâm, từ lòng yêu nước như vậy,
nhưng chưa dễ gì đưa xã hội ra khỏi cơn lúng túng như đèn cù, vẫn thấy có dòng
hành quân không nghỉ nhưng chỉ lát sau tất cả lại về chỗ cũ. Hôm nay tuy “khách
quý” (chữ của ông Trần Công Trục) chưa đến nhưng kết quả chuyến thăm viếng thế
nào thiết tưởng đã có thể đoán trước.
Nhất định là chuyến thăm lần này của họ Tập đến Việt Nam (như thăm
một nạn nhân của chủ nghĩa Bành trướng Đại
Hán) vẫn sẽ đạt được những mục đích mà họ dự định, đạt những ý đồ mà họ mong
muốn, mà không gặp trở lực nào từ phía Việt Nam. Đừng ai ngạc nhiên khi thấy
“nạn nhân” vẫn hân hoan đón rước anh xâm lược, vẫn cung kính tưng bừng,
nạn nhân có giẫy giụa hay phản kháng gì đâu?
Vẫn ôm 16 chữ vàng để gìn giữ cái
tài sản chung quý giá mà hai Bác Mao-Hồ đã dày công vun đắp. Vẫn những thứ cũ,
êm ru, có mới chăng là ở chỗ con sói đã nhích chân vào nhà chủ được thêm một
bước, nạn nhân bị khóa chặt thêm một mắt xích, và nội bộ người Việt thì càng hiểu
rõ lòng dạ của nhau hơn thôi.
Có thể sẽ lại được giải thích về những cố gắng kiên trì khôn ngoan
gì đó, thắng lợi to lớn gì đó của nhà cầm quyền Việt Nam.
Cứ tạm cho những cái
gọi là cố gắng ôn hòa khôn ngoan ấy là thực tâm muốn cho nước nhà tốt đẹp đi
chăng nữa, nhưng thử nghĩ mà xem, nếu không có những hoạt động như vậy từ phía
ĐCSVN thì một kẻ cao cờ thâm hiểm như Trung quốc đương nhiên sẽ phải rất tốn
công phu để tạo dựng cho được một
cánh quân thứ hai, phối hợp với cánh quân thứ nhất là đội quân xâm lăng lộ
liễu. Cánh quân thứ hai này có chức năng phải chống xâm lược bằng nước bọt để dân
nghe cho sướng mà yên lòng, nhưng đồng thời phải dẹp tan những cuộc biểu tình
thực sự muốn chống xâm lược, phải ngăn cản sự hỗ trợ quốc tế bằng cách khước từ
sự can dự của nước thứ ba và không kiện ra Liên Hiệp Quốc… Tóm lại, cánh quân
thứ hai này che chắn cho cánh quân thứ nhất xâm lược được trọn vẹn.
Liệu có lúc nào những người “đảng viên nhưng mà
tốt” giật mình, thấy mình ủng hộ cấp trên làm những điều như thế là vô tình trở
thành cánh quân thứ hai của bọn Tàu xâm lược hay không? Cũng xin thưa thêm rằng
kẻ đánh thuê mà không biết mình đánh thuê, cứ tưởng mình chân chính thì kẻ ấy
mới càng nguy hiểm. Vẫn có rất nhiều ngụy biện để lừa dối người dân nhưng tôi
tin rằng vẫn còn những người không dối nổi lương tâm.
Vì vậy, để hy vọng về một viễn cảnh tốt hơn, họa chăng ra khỏi cái
vòng luẩn quẩn như đèn cù, ta thử học người thầy thuốc, muốn chữa bệnh phải tìm
được cái gốc đã sinh ra bệnh. Thử đặt câu hỏi: Ông cha ta đã ứng xử thế nào để
thoát khỏi bàn tay ghê gớm của con mãnh thú bành trướng, 1000 năm Bắc thuộc chứ
ít gì đâu thế mà thoát được? Thoát được rồi, nhưng vì sao đến thế hệ ngày nay,
với bao nhiêu thuận lợi hơn ngày xưa mà nguy cơ Bắc thuộc có thể trở lại, trở
lại một cách khó gỡ?
Dù biết mình còn nhiều điều nông cạn nhưng cũng mạn phép được góp
một nhời bàn về kế sách Thoát Trung của các tiền nhân.
2/ Quy luật CẬN và VIỄN trong quan hệ
Việt Trung
Với Trung quốc nên gần hay nên xa?
Xin thưa ngay: nên gần, nhưng đừng gần quá, phải giữ khoảng cách,
đừng chui vào tay áo người ta.
– Không có nước nào gần gũi và nhiều
duyên nợ với Việt Nam hơn nước Trung quốc. – Không có người dân nào gần
gũi và dễ hòa hợp với dân Việt Nam hơn những người dân “đồng
văn đồng chủng” Trung Hoa.
– Không có nền văn hóa nào gần
gũi, ảnh hưởng nhiều đến văn hóa Việt Nam hơn văn hóa Trung Hoa,
đó là một trong vài nền văn hóa vĩ đại của thế giới.
Với một đối tượng như thế sao lại không nên gần gũi? Gần để học
cái Thiện mà theo, để biết cái Ác mà chống (1). Một nhân dân nhiều người tài
giỏi thế, một Văn hóa nhiều nét đặc sắc thế chẳng những nên gần mà còn nên kính
trọng. Nhưng cũng chính Khổng Tử khi nói về sự kính trọng lại đề xuất một cách
ứng xử “Kính nhi viễn chi” (kính nhưng mà phải đứng xa) để đối xử với “Quỷ
thần”, bởi “Quỷ thần” không phải là người thường như ta, kính trọng mà gần gũi
quá thì sinh vạ. Tổ tiên người Việt đã ứng xử với yếu tố Trung Hoa một cách “Kính
nhi viễn” đúng như vậy nên đã thành công.
Số mệnh truyền kiếp nước Việt phải kề môi kề răng với một con mãnh
thú khổng lồ, kình địch với nó cũng chết mà co rúm trước nó cũng chết. Vậy mà
nước Việt ta trải bốn nghìn năm không chết. “Đinh Lê Lý Trần” vẫn cứ sánh vai
cùng “Hán Đường Tống Nguyên” mà “hùng cứ một phương”, là bởi biết tìm ra luật
ứng xử “viễn cận”. Bình thường thì gần gũi và nhún nhường, chấp nhận
triều cống, kể cả việc xin làm dâu làm rể Thiên triều. Nhưng nếu Thiên triều
giở mặt, nhe nanh muốn nuốt chửng ta thì toàn dân ta trên dưới một lòng, đem
hết sức bình sinh quyết một phen sống mái, đánh cho đoàn quân Thiên triều tan
tác, xác chết đầy sông đầy gò. Nhưng thắng mà không kiêu (như kiểu kiêu của Lê
Duẩn sau này), không tận diệt mà mở đường cho địch rút, sau đó lại chủ động
hiếu hòa.
Sách lược lúc gần lúc xa, lúc cương lúc nhu sở dĩ được tiến hành
nhịp nhàng thành công như vậy là cốt ở hai điều: một là khi thân thiết vẫn phải
giữ khoảng cách, không để cho Tàu chiếm được những nơi huyết mạch, hai là lúc
kháng cự phải có sức mạnh tổng lực trên dưới một lòng quyết đánh cho giặc chẳng
những phải thua mà còn phải nể sợ đến mức phải từ bỏ dã tâm xâm lược. Lúc Cận lúc
Viễn đều có chừng mực như vậy làm cho gã khổng lồ đành phải nuốt hận, để cho
nước Việt nhỏ tồn tại, đô hộ tới cả ngàn năm mà đồng hóa không nổi, từng tấc
giang sơn của họ vẫn được giữ nguyên.
Bài học “Kính nhi viễn chi” ấy tổ tiên người Việt ta đã phải trả
bằng máu xương suốt nghìn năm nô lệ và đã thành công. Rất cẩn trọng nhưng linh
hoạt, không được thái quá cũng không bất cập.
Nhưng sự du nhập chủ nghĩa Cộng sản đã phá tan tành cái cẩm nang
giữ nước ấy của ta. Bởi bản chất của chủ nghĩa Cộng sản là vừa quá
tả lại vừa quá hữu, vừa thái
quá lại vừa bất cập. Lẽ Cận –Viễn không thể điều hòa, khi Cận khi Viễn
đều thái quá. Quan điểm phân chia giai cấp-địch ta và đấu tranh không khoan
nhượng, một mất một còn, tạo ra rất nhiều kẻ thù và hờn oán, đó là mặt quá tả,
đối với người khác mình thì đẩy ra xa (Viễn) và quy thành địch. Nhưng lại mơ
tưởng một thế giới đại đồng, một thứ hữu ái giai cấp không biên giới, đó là mặt
quá hữu khuynh, đã gần (Cận) thì lại gần quá, mất cảnh giác một cách ngây thơ
trước bản năng bất thiện vẫn tiềm tàng dù là đồng chí. Cả hai mặt quá đà, quá
khích này đều gây tai họa cho dân Việt Nam. Sự lạc quan tếu về tình cảm “vô sản
đại đồng” chẳng những làm nhòe ranh giới giữa công dân và người cầm quyền xã
hội bằng quan hệ cha con, bác cháu, mà củng làm nhòe ranh giới quốc gia bằng quan
hệ “anh cả Liên xô, chị hiền Trung quốc” như một đại gia đình vô sản. Khốn nỗi
sự xóa nhòa những ranh giới tự nhiên ấy một mặt ru ngủ những con cừu ngờ
nghệch, nhưng mặt khác chẳng những không lòe được những con hổ con sói tinh
khôn mà còn đánh thức bản năng tham lam của chúng và tạo cơ hội cho chúng nuốt
chửng những “đồng chí” nhỏ yếu hơn, khác nào quan hệ đồng thuận và hợp tác của
mãnh thú với con mồi trong cái ảo ảnh của thế giới đại đồng Cộng sản.
Chủ nghĩa
đại đồng ảo tưởng đã tạo ra những con mồi đầy tính tự nguyện hiến dâng. Phải
chăng đó chính là cái “tài sản chung quý giá” mà một nước Việt nhỏ bé với mãnh thú
Đại Hán khổng lồ Đại Hán mà hai “Bác” đã dày công vun đắp. Đại Hán cố giữ “khế
ước” ấy làm cái gông, cái bẫy, để nước nhỏ bé không cựa được, chứ nước Việt bị
thua thiệt đang cần thoát gông thì giữ cái đó làm gì?
Tóm lại là toàn bộ âm mưu đô hộ kiểu mới của Đại Hán đối với
Việt Nam được thiết kế trên cái nền Cộng sản. Chừng nào còn đứng chung trên cái
mặt bằng Cộng sản chung ý thức hệ ấy thì dân Việt vẫn như bị ngồi trên con
tàu đã thiết kế sẵn đường ray. Dân
Việt muốn chạy thoát khỏi cơn nô lệ mới chỉ có một cách là từ bỏ cái nền tảng
ấy, mặt bằng ấy, con tàu ấy, đường ray ấy. Đó là đáp số duy nhất cho bài toán
của Dân tộc chúng ta. Nhưng lối thoát ấy đã vướng một cái khóa do chính quá
trình cũ tạo ra.
Cái khóa hóc hiểm rất khó mở ấy là: tuy con tàu bị định hướng
sai khiến cho hành khách bức xúc và muốn thoát ra nhưng đội ngũ lái tàu và tập
đoàn thân hữu kiểm soát trên tàu của họ đã thu được lợi quyền kếch xù nhờ quỹ
đạo sai đó, thì họ phải ơn cái quỹ đạo đó đến muôn năm. Nghe hành khách, bỏ
đường ray ấy, bỏ con tàu ấy thì lợi quyền vua chúa kia đâu còn như cũ?
Câu chuyện bi hài của dân Việt mình suy cho cùng cũng đơn giản thế
thôi. Những anh xu thời được vận may, kiếm chác được ít nhiều thì cũng có thể
rộng lòng bỏ qua cho họ, nhưng sẽ không thể chấp nhận nếu họ cúi đầu bán rẻ
linh hồn cho quỷ Bắc Kinh, làm nhục cho cả dân tộc, đắc tội trước công lao và
xương máu của tổ tiên muôn đời nước Việt. Đảng CSVN đã đi quá đà trong việc gần
gũi với Tàu, để quân Tàu gần gũi quá sâu vào nội tình, nội địa của mình mà
không biết chính sách “Viễn-Cận” nham hiểm
của Tàu là “Viễn giao, Cận công”,
tức kết bạn với nước ở xa nhưng phải trừng trị, phải đánh, phải dạy những nước
ở gần. Thế thì kẻ núp vào ống tay áo của Tàu hãy coi chừng vì ắt có ngày toi
mạng!
Tóm lại, đối với anh Tàu Đại Hán, nước Việt ta phải theo gương tổ
tiên mà “Kính nhi viễn chi”, phải làm cho họ hiểu rằng “chúng em rất kính trọng
các ông, nhưng xin các ông đứng xa ra một chút, giữ đúng cự ly an toàn cho
chúng em nhờ! Nếu không… Bạch Đằng – Đống Đa còn đó! Ý Đảng thế nào, chứ lòng
Dân tôi quyết là như vậy.
*
Điều trớ trêu là khi dân đang bảo nhau thực hiện cho được chữ VIỄN
để giữ khoảng cách an toàn trước anh Đại Hán thì đại diện đại quốc lại có ông
rất CẬN sang chơi là ông CẬN
Bình họ Tập.
Cái lẽ VIỄN-CẬN
lại được một phen thử thách.
Nhớ chữ trong Tam tự kinh, đang muốn “Tập
tương VIỄN” là tập xa nhau ra, thì lại tiếp ông Tập
CẬN Bình, vậy phải “tập” thế nào đây, “tập” cho gần nhau thêm
nữa thì khốn!
Đừng quên cẩm nang Thoát Trung là KÍNH
nhi VIỄN! Bởi Kính mà Kính
Cận quá e nhìn không thấy kẻ thù.
H.S.P.
3-11-2015
Tác giả gửi BVN
No comments:
Post a Comment