Sự thật ai là kẻ xâm lược lớn
nhất ở Biển Đông
PGS.TS. Nguyễn Hồng Thao
(Học
viện Ngoại giao Việt Nam và Đại học Quốc gia Hà Nội)
Các bức ảnh của AMTI về mức độ cải tạo đất trong Biển Đông của
Trung Quốc và Việt Nam đã nảy sinh các cuộc tranh luận về ai là kẻ xâm lược lớn
nhất và thế nào là nguyên trạng ở Biển Đông.[1]
Khái niệm “xâm lược” được đề cập trong Nghị quyết 3314 ngày
14/12/1974 của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc[1][2].
Theo đó, một quốc gia sử dụng lực lượng quân sự chống lại chủ quyền, sự toàn
vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của một quốc gia khác, hoặc bất kỳ hình
thức nào không phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc. Quốc gia bị xâm lược có
quyền tự vệ chính đáng.
Các công trình cải tạo đất hiện nay trên Biển Đông gắn một cách
hữu cơ với các yêu sách chủ quyền. Các bằng chứng lịch sử cho thấy Việt Nam là
quốc gia đầu tiên thực hiện quản lý các quần đảo ít nhất từ thế kỷ XVII. Năm
1909 Trung Quốc mới quan tâm đến Hoàng Sa, năm 1932 Trung Quốc còn yêu sách
Hoàng Sa là điểm tận cùng lãnh thổ phía Nam. Trung Quốc cũng là quốc gia đóng
quân trên Trường Sa muộn nhất vào năm 1988 sau khi dùng vũ lực bắn cháy 3 tàu
vận tải Việt Nam, thảm sát dã man 64 lính công binh Việt Nam không vũ khí.
Philippines quan tâm đến Trường Sa những năm cuối thập niên 1950 và Malaysia có
mặt ở phần phía Nam vào những năm 1980. Một nước có chủ quyền từ lâu bị tấn
công bằng vũ lực thì biện pháp đầu tiên là phải mở rộng đóng quân để ngăn cản
sự xâm hại chủ quyền của mình. Trong năm 1988, Việt Nam đã tăng cường đóng quân
và thông báo rõ với thế giới về 21 đảo, đá đồn trú của mình. Philippines đóng 8
đảo, Trung Quốc 9 đảo, Đài Loan 1 đảo, Malaysia từ 3 đảo năm 1980 tăng lên 5
vào năm 1999.
Greg Austin lấy con số từ 2009 đến nay Trung Quốc đóng 9 thực thể (features)
còn Việt Nam đã tăng gấp đôi lên 48 thực thể. Trước hết, ông này đã dẫn không
chính xác phát biểu của Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ David Shear vào ngày
13/5/2015: “Việt Nam có 48 điểm đóng” [Nguyên văn: “Viet Nam has 48 outposts”].
Báo cáo Mỹ gọi đó là các outpost (điểm đóng) chứ không phải là features (thực
thể). Năm 1995 nhằm giảm thiểu căng thẳng, tạo điều kiện giải quyết hòa bình
các tranh chấp Việt Nam là bên đầu tiên đã kêu gọi các nước tôn trọng nguyên
trạng[3].
Việt Nam đã không mở rộng chiếm đóng mới
trên bất kỳ một thực thể nào mà chỉ tăng cường các điểm quan sát trên cùng một
thực thể để bảo đảm quản lý và chống sự xâm nhập của nước ngoài lên đảo. Ví dụ
trên cùng một bãi Thuyền Chài (Barque Canada Reef hay Lizzie Weber Reef) dài
khoảng 17 hải lý, rộng khoảng 3 hải lý, Việt Nam đồn trú ở trung tâm bãi
và có thêm hai chòi quan sát đầu bãi và cuối bãi. Phát biểu của Đại tướng Phùng
Quang Thanh ngày 1/6/2015 cho biết Việt Nam vẫn duy trì trên 9 đảo nổi và 12
bãi cạn lúc nổi lúc chìm.[4]
Nhiều điểm đóng trên một thực thể tồn tại tự nhiên chưa chắc đã bằng việc mở
rộng thực thể gấp nhiều lần kích thước thật để xây dựng cả một tổ hợp căn cứ
quân sự trên đó như Trung Quốc đang làm. Bản đồ của Greg Austin còn ghi nhận
các công trình của Việt Nam trên bãi cạn Tư Chính thuộc thềm lục địa mở rộng
của đất liền Việt Nam mà không phải là một bộ phận của quần đảo Trường Sa.
Từ
năm 1989, Việt Nam đã có Cụm Kinh tế – Khoa học – Dịch vụ trên đó.[5] Cách tính trên không biết vô tình hay hữu
ý bỏ qua các đảo, đá ở Hoàng Sa bị Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm phi pháp
năm 1974. Vì vậy việc sử dụng các con số một cách lẫn lộn, không nhìn vào bản
chất là trò chơi không công bằng.
Các công trình cải tạo của Việt Nam, Philippines và Malaysia đều
bắt đầu trước khi có Tuyên bố Ứng xử Trung Quốc – ASEAN (DOC) năm 2002 và đều
có những điểm chung: được tiến hành trên đảo, đá nổi trên mặt nước, nhằm mục
tiêu chống xói mòn và cải thiện đời sống sinh hoạt; nguyên vật liệu được chở từ
đất liền, các đảo dần được dân sự hóa và bắt đầu có các kế hoạch du lịch; không
có vũ khí hạng nặng, không là căn cứ quân sự lớn, đe dọa các nước khác, chỉ có
tính phòng thủ, không làm thay đổi bản chất tự nhiên của thực thể. Công tác cải
tạo đất của Trung Quốc trên các bãi cách đất liền Trung Quốc gần 1.000 km bắt
đầu từ 1988, tăng nhanh với tốc độ và quy mô chóng mặt.
Các hình ảnh vệ tinh
cho thấy Trung Quốc đã tăng diện tích cải tạo đất từ 20 đến 810 ha.[2][6] Tại Subi, tốc độ lấn biển từ tháng 5
đến tháng 6/2015 là 8 ha/ngày biển bãi ngầm này thành một căn cứ nổi có diện
tích đến nay là 3,87 km2 đủ để thiết lập một đường băng hơn 3 km.[3][7]
Nên nhớ, toàn bộ diện tích các đảo nổi
ở Trường Sa không quá 10 km2 trên diện tích biển 160-180.000 km2. Trung Quốc sử dụng các tàu hút nạo vét lớn
nhất thế giới, phá hủy các rặng san hô để lấy nguyên liệu, vi phạm các công ước
quốc tế về bảo vệ môi trường, đã làm tổn hại 300 ha rặng san hô biển, gây tổn
thất ban đầu hơn 100 triệu USD mỗi năm[4][8]
cho các nước xung quanh Biển Đông và những tổn thất không thể bù đắp cho môi
trường.
Trung Quốc bồi lấp các
bãi lúc nổi lúc chìm, biến chúng thành các đảo nhân tạo, rồi đòi hỏi thế giới
phải công nhận các đảo này có quy chế pháp lý như các đảo nổi, nghĩa là từ chỗ
các đảo nhân tạo chỉ có vùng an toàn 500m chúng sẽ có lãnh hải 12 hải lý thậm
chí vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Điều này không hề có trong Công ước Luật
Biển UNCLOS mà Trung Quốc từng cam kết. Quy mô lấn biển của Việt Nam chỉ là 0,2%
so với diện tích lấn biển của Trung Quốc vào tháng 3/2015.
[5][9]
Các công trình xây dựng trên các bãi này được Trung Quốc cho là phục vụ bảo vệ
môi trường biển, nghiên cứu khoa học, tìm kiếm cứu nạn nhưng trước hết đó là
các căn cứ quân sự, trang bị vũ khí hạng nặng và sân bay, bến cảng.
Quy mô và
tốc độ lấn biển của Trung Quốc làm cả thế giới lo lắng vì nó đe dọa trực tiếp
đến quyền tự do hàng hải của các quốc gia, ít nhất là trong vòng 12 hải lý từ
các công trình mà Trung Quốc đang xây dựng. Các căn cứ này là nơi xuất phát của
các lực lượng chấp pháp biển Trung Quốc, xua đuổi, bắn, cướp các tàu cá ngư dân
Việt Nam, Philippines, Malaysia, từng bước thiết lập lệnh cấm đánh bắt cá và
yêu sách đường chin đoạn trên toàn Biển Đông. Các căn cứ này rõ ràng mang tính
tấn công, đe dọa hoàn bình, ổn định khu vực nên buộc Mỹ, G7 và nhiều nước khác
phải lên tiếng.
[6][10]
Công trình cải tạo đất của Trung Quốc đã kích thích cuộc chạy đua vũ trang
trong khu vực khi buộc các nước nhỏ vì an ninh chủ quyền của mình phải đầu tư
những khoản tiền lớn cho vũ khí.
Trung Quốc rõ ràng đang tự mình đặt các quy tắc mới cho luật biển
quốc tế.
N.H.T.
[1]
Greg Austin, http://thediplomat.com/2015/06/who-is-the-biggest-aggressor-in-the-south-china-sea/
Andrew
Chubb , https://southseaconversations.wordpress.com/2015/06/14/defining-the-status-quo-in-the-south-china-sea/
[2] http://unispal.un.org/UNISPAL.NSF/0/023B908017CFB94385256EF4006EBB2A,
“Xâm lược là hành vi sử dụng vũ lực của một quốc gia chống lại chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của một quốc gia khác, hoặc theo bất cứ hình
thức nào trái ngược với Hiến chương Liên Hợp Quốc.”
[3] AFP, Tokyo ngày 21/4/1995. Ngày 20/4/1995, Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười đã phát biểu chính thức tại Tokyo rằng: “Quan điểm của
Việt Nam là giữ gìn hiện trạng để duy trì hòa bình và an ninh ở khu vực và tìm
kiếm một giải pháp hòa bình cho tranh chấp thay vì là sử dụng hay đe dọa sử
dụng vũ lực.”
[5] Ngày 14/8/1989, Chính phủ Việt Nam quyết định thành lập Cụm
Kinh tế – Khoa học – Dịch vụ trên vùng bãi ngầm Tư Chính, Huyền Trân, Quế Đường,
Phúc Tần, Phúc Nguyên thuộc thềm lục địa Việt Nam. Có toạ độ 7-8030′
Bắc, 1090-112020′ Đông.
Nhân Dân ngày 14/8/1989.
[6] http://www.economist.com/news/asia/21652510-america-and-china-are-odds-over-south-china-sea-trouble-shangri-la;
“Bộ trưởng Carter cho biết Trung Quốc đã cải tạo hơn 2.000 mẫu Anh (tương đương
810 ha), một diện tích lớn hơn tất cả các bên tranh chấp cộng lại.. và lớn nhất
trong lịch sử khu vực… chỉ trong 18 tháng, một khoản thời gian rất ngắn.”
[9] Carlyle Thayer, Review of the implementation of the 2002
ASEAN-China DOC and COC and challenges, Seminar Workshop on the implementation
of the DOC-SCS, Manila, 14-15 May 2015, p. 10.
Nguồn: http://nghiencuubiendong.vn/y-kien-va-binh-luan/5029-su-thuc-ai-la-ke-xam-luoc-lon-nhat-o-bien-dong
__._,_.___
No comments:
Post a Comment